Image default
Phật Học Ứng Dụng

Một Lòng Tin, Hành, Nguyện Hướng Về Đức Phật Và Bồ Tát

Hương Văn Ưu

Trong chúng ta, có ai lại không tồn tại tham, sân, si? Có ai mà không chịu ảnh hưởng của vọng tưởng và tập niệm? Nếu như vậy, chúng ta nhất định sẽ đắm chìm trong luân hồi sinh tử suốt thời vị lai, chứ đâu chỉ một đời mà còn nhiều đời nữa.

Vậy chúng ta còn sâu trong luân hồi này, đây là “việc lớn của đời người”. Việc lớn này không mang tính tương đối, mà mang tính tuyệt đối. Cái gọi là tương đối thì có nhỏ có lớn, còn tính tuyệt đối thì vượt qua lớn và nhỏ. Bởi vậy, mục đích tu hành, học Phật và hướng về thế giới Cực Lạc, phải là việc lớn cần giải quyết luân hồi sinh tử.

Để thoát khỏi đường sâu của lục đạo luân hồi, chúng ta cần phải tu học, sửa đổi hành vi, xả ác thủ thiện, ly dục đến với đường đạo, đi đứng năm ngồi đều hướng đến Phật và Bồ Tát. Nói chung là đừng tạo nghiệp và một lòng hướng về hành nguyện của Đức Phật A-di-Đà và hai vị Bồ Tát Từ Bi, Trí Tuệ Quán Âm và Thế Chí.

Về bản thân, thông thường, người ta cho rằng phải trốn tránh thế sự mới có thể thực hành giáo lý của Đức Phật được. Thật là không đúng. Đó chỉ là nguyên biến vô ý thức để tự khước. Trong nền văn học Phật giáo có nhiều bằng cứ dẫn chứng rằng đã có nhiều người nam và người nữ, sống trong gia đình, hành đạo được kết quả và đắc Niết bàn.

Học Phật là học thành Phật. Song muốn thành Phật trước hết phải thành người. Đó là một con người sống có ý thức và trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh hiện thực, mà trái lại còn dạy chúng ta phải dùng cảm đối diện với vấn đề, dùng trí tuệ và tự bi để hóa giải khó khăn, phiền não trong cuộc sống, nhằm xây dựng nếp sống của gia đình ấm đẹp và hạnh phúc, góp phần cho thế giới hòa bình, xã hội an lạc.

Giáo pháp Phật đạo hướng về giải thoát, tính tuyệt đối trong tu tập Phật họcGiáo pháp Phật đạo hướng về giải thoát, tính tuyệt đối trong tu tập Phật học

Lục Tổ Huineng đã từng dạy: “Phật pháp vốn tại thế gian, Trong đời giác ngộ chư mục đâu xa. Bồ Đề cuộc sống quanh ta, Bốn bốn câu ngộ, chỉ là uống công.”

Để có cuộc sống an lạc hiện tại và hướng đến con đường giải thoát, chúng ta cần phải tu học nhiều hơn nữa. Người cơ sở không những thực hành Tam quy, Năm giới, Thập thiện, mà còn phải tinh tiến ngày một thêm hơn, học Tứ Diêu Đế, Bát Chính Đạo… để mỗi ngày tự hoàn thiện trên bước đường tu tập đạo giải thoát.

Cho nên, điều cơ bản của người học Phật là đừng tạo nghiệp, bởi nghiệp là hành động có tác ý, phát khởi từ thân, khẩu, ý. Có thiện, có ác hoặc vô ký, nhưng nghiệp ấy sẽ đưa đến một kết quả đáp trả gọi là báo, theo suốt ba đời như bóng theo hình, tự là làm tự chịu không ai thay thế được. Chỉ khi thực hành được như vậy mới thấy con đường phía trước thành thang rộng mở đầy hoa.

Nhân Quả Và Nghiệp Báo Trong Ba Đời

“Nếu sử hữu nhân tác bất thiện nghiệp, bắt thủ khổ quả địa ngục chi báo” (Nếu có người tác nghiệp bất thiện, chắc chắn nhận nghiệp báo khổ địa ngục).

Tài hỏa khủng khiếp hơn là khi đã tác nghiệp rồi thì khó mà dứt ra được, nó theo như bóng theo hình suốt cả cuộc đời.

“Duy hữu罪福業 生死未曾聞如影之隨形” (Chỉ có tội phước nghiệp, sinh tử chưa từng bỏ, như bóng theo hình).

Chúng ta hãy nhận thức rõ luật nhân quả xảy ra xuyên suốt ba đời, phải hiểu trước sau cho trọn vẹn, mau hay chậm để tự răn mình mà sửa đổi ác thành thiện, cho mai sau được quả tốt hơn.

“Ngã kim sở以此尊兄皆由往昔,積諸善業,今宜作諸善,造來生果” (Ta nay sở dĩ được vượt trội cao quý như thế này, đều do xưa kia cắt chứa các việc lành. Nay nên làm các việc lành để tạo quả tiếp mai sau).

Không ít người thắc mắc, sao tôi làm việc thiện mà gặp cảnh ác hoạ, còn người làm việc ác lại gặp điều tốt. Xin nhắc lại, biết đâu đời trước mình tác ác mà nay mình trả chưa hết nên phải trả tiếp. Còn người tuy làm ác nhưng phước báu đời trước còn. Nên tin rằng: Tác nghiệp ác, hoặc trước hay sau, khi hình thành kết quả cũng giống như nhau.

“若復少時作福長時作罪,後生之時少時享福長時享罪” (Nếu phúc thiếu thời tác phúc, trường thời tác tội, hậu sinh chi thời, thiếu thời thụ phúc, trường thời thụ tội).

Điều đáng nói là nghiệp báo rất công bằng, đó là ai làm nấy chịu.

Tự tác thiện ác nghiệp, kim tự thụ khổ lạc (Tự tác thiện ác nghiệp, kim tự thụ khổ lạc).

Luật nhân quả trong Phật giáo: Nghiệp báo theo suốt ba đờiLuật nhân quả trong Phật giáo: Nghiệp báo theo suốt ba đời

Tín Tâm Tha Lực (Tin tâm tha lực): Nói là nghiệp báo theo suốt cả cuộc đời (ba đời) nhưng Đạo Phật vốn từ bi, nếu biết tu tập nghe lời Phật dạy (cải tà quy chính) thì quả báo có thể chuyển đổi, đây là cơ hội, niềm lạc quan trên bước đường tu tập. Nghiệp báo không cố định; chuyển nghiệp nặng thành quả nhẹ nhàng.

Như chúng ta biết, việc sống chết là việc lớn, vậy ngay bây giờ chúng ta hãy chuẩn bị hành trang để chúng ta mang theo. Đời sống hằng ngày có đầy báng, nào là danh lợi, tham, sân, si lúc nào cũng chỉ chực nó lên để hóng mong đạt được dục vọng mà con người đòi hỏi. Người tu hành phải nhìn thấy tất cả dục vọng ham muốn đều là vật ngoài thân, khi chết đi không mang theo được, lại không cứu ta thoát ra khỏi khổ sâu đường. Vậy từ ngay bây giờ chúng ta phải chọn con đường để mà đi, con đường đó, Phật và Bồ Tát đã chỉ dạy và luôn quan tâm giúp chúng ta.

Hành Nguyện Và Tha Lực Của Bồ Tát

Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai lực rộng lớn khi có tiếng xưng niệm đến Ngài là Ngài cứu giúp chỉ một “niệm” một “tiếng”. Trong kinh Phổ Môn ta thấy Đức Phật đã báo Vô Tận Ý Bồ Tát, Thiên Nam tử, nếu có vô lượng chúng sinh chịu khổ nào, dù vào trong lửa lớn, bị nước lớn cuốn trôi, một lòng xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, tức thời xem tiếng tâm kia đều đặng giải thoát, đều đặng đến chỗ cạn. Nếu gặp quỷ La Sát hay có người sắp hại, liền niệm danh hiệu Ngài thì thoát khỏi quỷ La Sát, người kia cảm dao gáy liền gãy tương đo. Nếu người có tội hoặc không tội, gông cùm xích trôi buộc, xưng danh hiệu Bồ Tát, thấy đều nứt rã, liền đặng giải thoát.

Tất cả những lời dạy trên, dù chúng ta hiểu cách nào đi nữa, nhưng có điều không thể thiếu cho người tu tập là phải trì niệm, ngưỡng vọng, quán chiếu thì công đức phước báo sẽ giúp thoát khỏi chướng ngại cho người tu tập giải thoát, dù đó chỉ là phương tiện. Nếu hiểu được thì sự cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát hiệu nghiêm, ắt là lòng ta được nhẹ nhàng, thanh tĩnh thoát ra chỗ Ta-bà, trầm luân đau khổ.

Lòng tin và nguyện hướng về Bồ Tát cứu độ chúng sinhLòng tin và nguyện hướng về Bồ Tát cứu độ chúng sinh

Đó là nói về trên bước đường tu của người tại gia khi còn gặp nhiều chướng ngại phiền não. Việc nhớ, nghĩ, hướng về Bồ Tát xưng niệm danh hiệu cũng là cách tốt nhất để bỏ lo sợ trên bước đường tu học. Còn để thoát khỏi sâu đường thì hãy nghe lời Đức Tứ phụ Thích Ca Mâu Ni giảng nói trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, trừ pháp môn Tịnh Độ này ra, các pháp môn khác đều là tự cứu, đều là Phật Thích Ca Mâu Ni cấp cho chúng ta vũ khí giới định tuệ, vũ khí này, chúng ta có cảm nội hay không?

Giống như thanh đao Thanh Long Yêm Nguyệt nặng hơn tám mươi cân của Quan Công, tuy sắc bén, nhưng chúng ta cảm không nội, không sử dụng được mà có cảm thì chỉ thêm phiền phúc. Nếu thân thể chúng ta cường tr壮, lại có thể sử dụng tự tại thì mới có thể đột phá vòng vây. Vậy nên theo hành nguyện Đức Phật Dị Đà mà trì niệm sâu chủ “Nam Mô A Di Đà Phật” đặng được giải thoát.

Nghiệp lực của chúng sanh có thể sánh bằng núi Tu Di, nhưng nghiệp lực của chúng ta so với núi Tu Di còn cao hơn, sâu rộng như biển, đại hải là sâu nhất, nhưng tội nghiệp của chúng ta so với đại hải còn sâu hơn. Như vậy, nếu Đức Phật A Di Đà không phát ra lời thệ nguyện: “Nếu Ta thành Phật, mười phương chúng sanh về cõi nước ta, cho đến mười niệm, nếu chẳng được sanh về thì Ta không ngồi Chính giác. Chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”, thì chúng ta vĩnh viễn phải chịu luân hồi trong ba cõi sâu đường. Điều nguyện này hết sức từ bi. Bởi vậy, Đức Phật A Di Đà đã kiến tạo thế giới Cực Lạc. Ngài nhất định phải hoàn thành công đức vãng sanh, sau đó mới hồi hướng hết cho chúng ta.

Kinh Vô Lượng Thọ nói:

“Ta ở vô lượng kiếp

Không là làm đại thí chủ

Cứu khắp người nghèo khổ

Thế không thành Chính giác.”

Đức Phật A Di Đà bình đẳng cứu độ chúng sanh nghèo khổ ở khắp mười phương. Chúng ta từ khi còn nhỏ ở thế gian này, phải chịu đủ mệt mỏi sự bận khổn khó, sau khi chết lại phải chịu luân hồi trong sâu nơi, khổ không thể nói hết. Đức Phật A Di Đà đã nhất định là làm một đại thí chủ đến cứu độ chúng ta.

Chúng ta là hạng phàm phu chịu nhiều tội nghiệp. Tự ta đã tu hành, nhưng có biết thoát khỏi sâu đường hay không? Vậy điều cần nhất là ta phải nương theo tha lực. Nói theo thế gian là phải nương theo cha mình, cha nào mà không thương con (con bỏ cha thì có, nào đâu cha bỏ con). Và đã đến lúc con nhà ai về nhà nấy. Vậy ngay từ bây giờ một lòng niệm Phật Di Đà (đi, đứng năm, ngồi) lúc nào, ở đâu làm việc gì cũng nghĩ nhớ về cha, nhớ về nhà, thì nhất định sẽ được cha dẫn về nhà. Đây không còn là phương tiện nữa mà là nhu cầu ưu nguyện của người tu không thể thiếu để đi đến giải thoát.

Chúng ta khắc cốt ghi tâm rằng, dù đã có giữ gìn Tam quy Năm giới, thực hành Thập thiện… chặng đi nữa thì cũng không thể sạch tội, mà phải lặt lại lần lần như lặt bậc chuỗi cho đến khi nào đến lõi tận cùng mới được. Như vậy, chúng ta phải vừa tu học vừa nương vào nguyện lực của Đức Phật Di Đà mới có thể được vãng sanh. Chúng ta cần giữ tín nguyện đối với tha lực, mà “Tín quý ở chỗ sâu dâu. Nguyện quý ở chỗ tha thiết”, một lòng hướng về Phật tâm không dao động thì đây chính là tiến trình để chúng sanh tu hành, là con đường ngắn nhất để tiến vào thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Đạo Phật Trong Cuộc Sống Hiện Tại

Có không chấp chặt tại lòng ta,

Khổ khác vui đâu chỗn Ta bà?

Vô lượng Từ bi miễn diều hữu,

Muôn ngàn Hề xả cõi hạng sa.

Cảnh trần ách nạn cầu Bồ tát,

Cực lạc Tây phương niệm Di Đà.

Tinh tấn tu hành nương cửa Phật,

Đường về Tịnh độ chẳng còn xa.

Việc tu niệm Phật giống như việc đi thuyền, dù là bản thân có sức lực nên suốt lộ trình không cần sử dụng. Hưởng hạo, bản thân không có một chút sức lực nên mới đắm lạc, thì nhất định phải nhờ vào sức cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Giống như người đi đường thủy, ngồi trên thuyền, rất thoải mái, không những dễ đi, còn đến mau, chắc chắn, nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà mà không cần nhờ vào các công đức khác để hồi hướng, chỉ cần nhất hướng chuyên xưng A Di Đà Phật là đủ rồi, hơn nữa kết quả lại nhanh, thành tựu ngay trong hiện tại, được vãng sanh không còn thoái chuyển.

Trên bước đường tu học tự thân, chúng ta cần phải nhớ đến tha lực của Đức Phật và các vị Bồ Tát, đó là con đường tốt nhất giúp ta giải thoát. Mong rằng chúng ta ở chỗ Ta bà có thể học được từ ngôn hành của các vị Tôn Tăng, các thầy, thấy được niệm hy vọng và ánh sáng để bước ra khỏi con đường quanh co khúc khuỷu, ra khỏi sâu đường, đến cõi Tịnh độ Cực Lạc, dùng công đức thệ nguyện của Phật để trang nghiêm tự thân, nhất hướng chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà.

Được như vậy thì như hoa sen mọc giữa bùn nhơ, như ngọn lửa bùn cháy từ đống tro tàn, tuy rằng, chưa ra khỏi chỗ Ta bà mà đã chẳng phải khách Ta bà dài lâu, chưa vãng sanh về miền Cực Lạc, mà đã là khách quý ở chỗ Lạc bang.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Related posts

Xứng Đáng Là Ruộng Phước – Giáo Lý Về Công Đức Cung Kính Tăng Ni

Administrator

Hãy Là Người Hạnh Phúc

Administrator

Phật Dạy: Hãy Tự Mình Nương Tựa Chính Mình

Administrator