Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Chuyến Vãng Sanh của Lão Cư Sĩ Lữ Nhiên Phú (1929-2000)

Tâm pháp niệm Phật là một trong những con đường tu tập thiêng liêng nhất trong Phật giáo Mahayana. Câu chuyện về lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú, người con trai của đất nước Trung Hoa nhưng dành trọn tấm lòng để thờ phượng Phật A Di Đà tại xứ Mỹ, là một minh chứng sống động cho sự linh ứng của Tây Phương Cực Lạc. Cuộc đời của ông không chỉ là câu chuyện về một vị cư sĩ bình thường, mà là tấm gương sáng về đơn tâm niệm Phật, vượt qua mọi chướng ngại và cuối cùng đạt được vãng sanh – lợi ích tối thượng mà bất cứ Phật tử nào cũng mong muốn.

Tiểu Sử Lão Cư Sĩ Lữ Nhiên Phú

Lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú, pháp danh là Chúc Quỳ, sinh năm 1929 tại Trung Quốc. Ông là người Việt gốc Hoa, sang Việt Nam vào tuổi 17 và lập gia đình tại Sài Gòn. Mặc dù gia cảnh nghèo khó không cho phép ông được học hành, nhưng bản tính chất phác và lương thiện của ông đã tạo nên một nền tảng tâm linh vững chắc. Ông có 8 người con và vợ chồng ông đều thường xuyên đến chùa. Các con của ông cũng có những người đã quy y Tam Bảo, cho thấy ông đã truyền lại tín ngưỡng Phật giáo cho thế hệ kế tiếp.

Năm 1991, khi tuổi đã cao, ông sang Mỹ sinh sống. Tại đây, ông quy y tại chùa Phật Bảo và được Thượng tọa Thích Thanh An đặt cho pháp danh là Chúc Quỳ. Dù ở đất khách, tuổi tác không còn minh mẫn, nhưng ông không từ bỏ tâm nguyện tu học Phật pháp.

Tâm Huyết Tu Tập và Hành Động Thực Tập

Ông thường xuyên đến chùa nghe pháp và dự các buổi Bát Quan Trai. Ông tu tinh tấn hơn nhiều người. Bất kể mưa gió hay trời lạnh, mỗi sáng chủ nhật, ông đều đến chùa Quang Minh để dự khóa Hồng Danh Sám Hối. Nhờ vậy, những tập khí của ông từ từ rơi rụng, nhất là tính nóng nảy và tính nguyên tắc.

Trước kia trong nhà, ai làm điều gì trái ý là ông la hét ngay, hoặc đến giờ dùng cơm thì mọi người phải đủ mặt, cùng ngồi và ăn. Nhưng từ lúc thẩm nhập Phật pháp thì ông trở nên dễ dãi, hiền hòa, hiền như ông Phật; dứt hết tất cả mọi thói lồi lông. Ông thường lặng lẽ ngồi riêng một mình, khi ăn ông cũng ăn riêng; ai làm gì thì làm, ông đều không quan tâm gì hết; cả đến vật cứng rơi trúng chân mà ông cũng không phản ứng kêu đau.

Lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú niệm Phật mỗi ngày tại nhà, tâm định như Kim CươngLão cư sĩ Lữ Nhiên Phú niệm Phật mỗi ngày tại nhà, tâm định như Kim Cương

Ông thường hay đem những điều đã học ở chùa về giảng giải cho vợ con nghe. Công phu thường nhất của ông là mỗi tối và khuya tụng kinh A Di Đà và Bát Nhã Tâm Kinh, niệm Phật mỗi ngày 6 tiếng đồng hồ 300 xâu chuỗi, đồng thời quan tưởng Phật A Di Đà. Lúc ông niệm Phật, nhiều khi ai hỏi gì ông đều chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng hiểu gì cả.

Sự Hướng Dẫn và Tinh Tiến Trên Con Đường Niệm Phật

Có lần ông hỏi người bạn đạo, là liên hữu Minh Hiền: “Niệm Phật cách nào mới thực sự vãng sanh, hậu thoát khỏi luân hồi sanh tử?” Minh Hiền giải đáp rằng niệm Phật phải thật tha thiết, phải quên hết tất cả lục dục tâm thương hàng ngày, như cánh tình vợ con hãy rằng bỏ, đừng để bị rằng buộc, phải sửa đổi tính cho được nhu hòa, hiền hậu. Thì ngày ra đi chắc chắn sẽ được vãng sanh như ý.

Ông trầm ngâm suy nghĩ giây lâu rồi nói: “Ngộ sẽ cố gắng thực hiện để được vãng sanh!” Cứ thế, mỗi lần gặp bạn đạo là ông gộp chuyện về niệm Phật và vãng sanh. Hôm nào, ông than với bạn: “Ngộ (tôi) niệm Phật sao còn nhiều vọng tưởng quái!” Minh Hiền giải bày: “Anh nên dùng cách niệm Phật ‘công cụ’, nghĩa là tự quy định mỗi ngày mình sẽ phải niệm bao nhiêu lần danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Như vậy, mình sẽ diệt được vọng tưởng và không lơ là trong việc niệm Phật.”

Mặc dù kém về chữ nghĩa, nhưng ông là người có ý chí “Lão thật niệm Phật” cầu sanh Tây Phương. Ông là người mộc mạc, thật thà. Đối với Phật pháp điều nào không biết thì ông đem hỏi ngay, không do dự, không sợ xấu hổ. Có hôm ở giữa pháp hội, ông hỏi Đại Đức Minh Chí, trụ trì chùa Quang Minh: “Thưa Thầy, đang ngồi tụng kinh hoặc nghe pháp mà lỡ bị đau bụng thình lình, phải ‘đánh rầm’, như thế có tội không?” Cả đại chúng ai cũng ôm bụng cười, Thầy cũng cười trả lời: “Trường hợp bất khả kháng thì Phật tha, nhưng mà ráng trừng thì tốt hơn.”

Ông lại hỏi tiếp: “Lỡ trừng không nổi thì sao Thầy?” Hội trường phát lên một trận cười lớn hơn! Lần khác, cũng tại chùa Quang Minh, ông cũng hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy! Chân con đau không ngồi kiết giả và bán giả được. Xin Thầy chỉ cho con cách ngồi niệm Phật thoải mái?” Thầy Minh Trí trả lời ba cách ngồi niệm Phật theo sự chỉ dẫn của Hòa Thượng Thích Độc Niệm: “Bác đau chân không có ngồi kiết giả và bán giả được, thì bác cứ việc ngồi dưới chân ra cho thoải mái để niệm Phật, đó gọi là ‘Tự do giả’.” Ai cũng cười “Cái giả tự do” của Thầy!

Sự Tiến Bộ và Đóng Góp Cho Tam Bảo

Từ sự rụt rè, lễ phép lúc ban đầu mới đến chùa, ông dần dần trở thành một “học viên xuất sắc” trong các khóa học và các buổi hoạt động cùng dưỡng Tam Bảo, in kinh ấn tạng, bồ thí, phóng sinh… Bằng tiếng Việt lơ lỡ của người Hoa: “Để tui mở hàng, đặt làm!” Thế là ông đã gây hảo hứng cho mọi người, ai cũng nương theo phước đức của ông mà hoàn hỉ phát tâm.

Vài tuần trước khi vãng sanh, ông nói với con trai út của ông là Thanh Trí: “Ngộ thấy Phật A Di Đà.” Một hôm, ông tâm sự với liên hữu Minh Hiền: “Chắc ngộ không còn dịp trồng cây cho chùa nữa!” Liên hữu hỏi: “Tại sao vậy?” Ông bình thản đáp: “Tự nhiên tôi linh cảm như vậy!” Đôi khi, ông còn lên tiếng nhắc nhở mọi người: “Đừng quên niệm Phật, để có ngày đạt được vãng sanh như Lão thật!”

Những Dấu Hiệu Trước Khi Vãng Sanh

Đêm 15 tháng 5 năm 2000, khoảng 3 giờ khuya, ông dậy nấu cháo, rồi tụng kinh như thường lệ. Nhưng khác lạ hơn bình thường là ông tụng đến hai lần. Huệ An (cô con gái thứ năm của ông), không hiểu sao trêm đêm đó không ngủ được; lắng nghe ông tụng trong lòng sinh nghi, linh cảm rằng sẽ có chuyện gì. Sáng ngày 16 tháng 5 năm 2000, theo công khóa ông đi kinh hành, đột nhiên dừng chân lại một chậu kiáng, rồi nói: “Bà ơi! Uống quá, mấy cây khớp qua trồng tôi bây giờ, bổng chết hết rồi.”

Vợ ông nghe nói, định lên tiếng nhắc ông hãy lo niệm Phật. Nhưng chưa kịp nói thì ông đã tiếp tục kinh hành và niệm Phật. Một lát sau, ông kêu lên: “Bà ơi! Ngộ đau một bên mặt…” Rồi sau đó: “Bây giờ nó đau xuống ngực.” Bà vợ vội vã chạy vô nhà lấy một viên Tylenol và nước đem ra cho ông uống, khi đưa thuốc cho ông thì ông hãy còn niệm Phật, nhưng khi bà trở vào trong nhà thì một thoáng sau, ông gục đầu xuống và thanh thản ra đi. Ông hưởng thọ 71 tuổi.

Điều đặc biệt là gương mặt trở đẹp lại hơn. Nhiều bà con đến viếng cũng tâm tắc khen rằng: “Sao trông ông mặt mày rạng rỡ quá!” Mọi người đều tin chắc rằng ông đã được vãng sanh, nên mới gọi riêng chắu Huệ An lại dặn dò: “Khi thiêu xong hãy lưu ý tìm Xá Lợi!”

Phát Hiện Xá Lợi – Chứng Minh Thành Công Vãng Sanh

Trong thời gian chờ đợi thiêu hóa, cô con gái của ông là Huệ An đã nằm mơ thấy gia đình nhận được nhiều kim cương trong tro cốt của Ba mình. Quả đúng như thế, sau khi hỏa táng đã thu được những xá lợi phi thường:

  1. 20 viên xá lợi tròn vo, to bằng đầu đũa ăn cơm, màu xanh đậm.
  2. Khoảng 50 viên xá lợi nhỏ bằng đầu viết bích, có viên màu xanh đậm, có viên màu hồng sáng lập lánh.
  3. Hơn 300 mảnh xương nhỏ và dẹp có màu xanh nhất pha trộn và vân sáng trắng, và một mảnh xương có 3, 4 màu sáng lập lánh như xá cữu.
  4. 60 hoa xá lợi có vòng tròn giữa có nhiều lá nhỏ, đủ các màu rất đẹp mắt.

Đặc biệt là có một viên xá lợi to bằng giọt nước và hình dạng giống như giọt nước, màu trắng tinh tuyệt đẹp. Trước kia bình bông cúng Phật trong nhà, chỉ để hai tuần là héo. Vậy mà khi ông Chúc Quỳ mất, bình bông trải qua sáu tuần mà vẫn chưa héo, quả là điều kỳ diệu. Tất cả những dấu hiệu này đều chứng minh rằng ông đã thực sự đạt được vãng sanh cùng Phật A Di Đà.

Bài Học Về Niệm Phật và Vãng Sanh

Câu chuyện của lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú là một bài học quý báu về sức mạnh của niệm Phật. Mặc dù ông không được học hành cao, không có kiến thức sâu rộng, nhưng niệm Phật đơn tâm, chuyên chúc, ông đã vượt qua mọi chướng ngại. Ông chứng tỏ rằng muốn vãng sanh, không cần phải là người thông minh, học cao, mà cần của là tâm chân thật, tâm kiên định, tâm có ý chí mạnh mẽ.

Ông đã sửa đổi được tính tình nóng nảy, tính nguyên tắc thông qua tu tập Phật pháp. Ông đã từ một người hay la hét, khi ai làm trái ý là nổi điều, dần dần trở nên hiền hòa, dễ dãi, có tâm từ, có tâm từng. Đó là sức lực thực sự của Phật pháp, là sức lực thực sự của niệm Phật. Ông còn là gương sáng cho thấy rằng mục đích cuối cùng của tu tập Phật giáo chính là sự chuyên biến tâm tính, là sự tinh tiến về giác ngộ, và vãng sanh Tây Phương chính là kết quả của sự tu tập chân thật đó.

Lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú đã chứng tỏ rằng, với tâm chân thật, với sự kiên định, với niệm Phật không ngừng, bất cứ ai cũng có thể đạt được vãng sanh. Đó chính là lời Phật dạy: “Chúng sanh bất luận thất căn tính, đều khả thành Phật.” Không có ai hoàn toàn mất hy vọng, chỉ cần có ý chí và hành động thực tập, chúng ta cũng sẽ thành công như vậy.

Câu chuyện về lão cư sĩ Lữ Nhiên Phú không chỉ là một giai thoại Phật giáo, mà còn là một lời khích lệ mạnh mẽ cho tất cả những Phật tử đang trên con đường tu tập. Hãy nhớ rằng, niệm Phật không phải là một việc làm bề ngoài, mà là sự chuyên tâm, sự kiên định, sự từng bước sửa đổi bản thân để trở nên thánh hiền. Vãng sanh Tây Phương chính là mục tiêu cuối cùng của tất cả những Phật tử có tâm chân thật.

Related posts

Mảnh Trăng Tiền Kiếp

Administrator

Ông Vua Kiếu Mạu Và Bài Học Về Nhân Quả, Tích Phúc

Administrator

Sức Mạnh Vi Diệu Của Lòng Từ Bi – Hóa Giải Khổ Đau Qua Giáo Lý Phật Giáo

Administrator