Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Vô Ngã Và Đạo Phật: Chìa Khóa Giải Thoát Khỏi Kiếp Luân Hồi

Người học Phật thường được dạy rằng phải phá vô ngã cháp, bởi cái ngã là mắc chặn chúng ta nơi biển phiêu bồng nạn nàng, sinh tử luân hồi sẽ hồi. Nhưng vô ngã cháp chính là gì? Làm sao để phá vô ngã cháp đạt được vô ngã thực tại? Đây là những câu hỏi sâu sắc mà nhiều Phật tử Việt Nam đang tìm tòi để hiểu rõ con đường tu tập của mình.

Khái Niệm Cơ Bản Về Ngã Và Vô Ngã

Ngã có ý nghĩa là Ta, Tôi hay mình, còn ngã sở là của ta, của tôi hay của mình. Phàm phu chúng ta thường hiểu ngã là ta được lập thành từ năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây chính là nền tảng của bản ngã mà chúng ta hàng ngày coi là chính mình.

Đức Phật thấy chúng sinh cháp có ngã và ngã sở, nên tùy thuận nương theo đó mà giải thích rằng: “nhưa hai bàn tay vỗ vào nhau liền sinh ra tiếng”. Cũng như vậy, “ngã là tự hợp của năm uẩn-nghiệp và ái” rồi sau đó Ngài mới giải thích cho họ hiểu rằng cái yếu tố lập thành ngã đi từ ‘sắc’ đến ‘thức’ của năm uẩn, đến nghiệp và ái đều chẳng phải là ngã.

Đức Phật phá tất cả kiến cháp đối đãi sai biệt của hiện tượng giới để chỉ cho chúng sinh thấu đạt vô ngãĐức Phật phá tất cả kiến cháp đối đãi sai biệt của hiện tượng giới để chỉ cho chúng sinh thấu đạt vô ngã

Hai Loại Cháp Và Bản Chất Thực Sự

Khi nói đến cháp, chúng ta phải biết là có hai thứ cháp: cháp ngã và cháp pháp. Hai thứ “cháp” này mà còn thì người ta không được sáng suốt. Ngã cháp là không nhận biết cái thân con người là do ngũ uẩn tạm thời hòa hợp, mà chúng ta cứ cho là có cái “thân” này thật, và do đó sinh ra phiêu bồng nạn nàng, mê vông, vui buồn, khổ đau.

Còn cháp pháp là không biết tất cả pháp là do nhân duyên mà sinh ra: tất cả như ảo, như hóa, thoát có, thoát không và vốn dĩ không trường tồn, vĩnh hằng. Thế mà ta cứ cháp là có thật, là trường tồn mãi mãi. Hiểu rõ sự khác biệt này là bước đầu tiên trong hành trình phá phá cháp của chúng ta.

Năm uẩn không thật, ngã cũng không thật mà là do nhân duyên tạm hợpNăm uẩn không thật, ngã cũng không thật mà là do nhân duyên tạm hợp

Bốn Hình Thái Của Cháp Ngã

Xét về ngã, chúng ta thấy có ít nhất 4 hình thái về cháp ngã:

Thứ nhất: Cháp thân ngũ uẩn này là Ta. Đây là mức độ cháp ngã thô thiển nhất, khi chúng ta cho rằng thân thể năm uẩn này chính là chúng ta.

Thứ hai: Cháp thân ngũ uẩn này của Ta. Mức độ này tinh tế hơn, khi chúng ta cháp thân này là sở hữu của ta, là tài sản riêng của mình.

Thứ ba: Cháp cái thân ngũ uẩn này không phải là Ta, cũng không phải của Ta mà trong cái ta có cái Thân, và trong cái thân có cái ta. Đây là mức độ cháp ngã rất tinh tế, trộn lẫn giữa chủ thể và khách thể.

Thứ tư: Cháp vũ trụ là Ta, ta là vũ trụ, vũ trụ là thường trụ, là vĩnh cửu. Đây là mức độ cháp ngã siêu phẩm, khi sự cháp ngã mở rộng ra cả vũ trụ và cho rằng tồn tại vĩnh hằng.

Mỗi loại cháp này đều trở thành nguồn gốc của khổ đau, vì chúng che phủ bản chất thực sự của hiện tượng giới đối với chúng sinh.

Pháp vô thường, vô ngã, vô lạc - ba đặc tính cơ bản của tất cả hiện tượngPháp vô thường, vô ngã, vô lạc – ba đặc tính cơ bản của tất cả hiện tượng

Đạo Phật Phá Cháp Bằng Lẽ Trung Đạo

Có quan niệm cho rằng nhân phiêu bồng nạn nàng khổ đau của con người đều do cái tưởng nhận ra có cái Ta, tức là ngã tưởng (Perception of selt) phát sinh. Để muốn diệt trừ ngã tưởng này phải dùng phép đối trị bằng pháp tưởng, tức là phép quán chiếu về pháp. Họ cho rằng không có ngã nhưng có pháp. Cái ta không có nhưng có những cái tư tưởng là m thành cái ta.

Khi quán chiếu như vậy mới thấy không phải cái ngã của mình có sinh có diệt mà chỉ có sự sinh diệt của các pháp. Theo quan niệm này, không cháp vào ngã, nhưng lại còn kẹt vào pháp. Họ cho rằng các pháp tu là vô thường, là vô ngã, chính điều này là m cho con người khổ đau. Chính sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là các pháp điên đảo, vì vậy, phải xa lửa chúng để có một cảnh giới không có phiêu bồng nạn nàng khổ đau, cảnh giới đó là Niết-bàn.

Niết-Bàn Thực Sự Và Đại Bát Niết-Bàn

Niết-bàn thực sự chính là Đại Niết-bàn, ngã thực sự chính là Đại ngã, là Chân ngã. Nó gồm đủ bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Còn cái ngã của phàm phu thì có đủ bốn tính xấu: vô thường, vô lạc, vô ngã và bất tịnh. Sự khác biệt này rất quan trọng trong đạo Phật, vì nó chỉ ra rằng vô ngã của phàm phu không phải là vô ngã tuyệt đối.

Trong bối cảnh của Phật giáo Đại thừa, các pháp mà cảm giác, các yếu tố tạo cho chúng ta một ý tưởng về ngã cũng không có. Ngã cũng không mà pháp cũng không, và Niết-bàn nói ở trên cũng chỉ là Niết-bàn hóa thành, chưa phải là Niết-bàn thật sự.

Tás “Đại” của Đại Niết-bàn không có nghĩa là to lớn mà là chẳng thể cân lường, chẳng thể nghĩ bàn. Tás “Đại” trong chữ Đại ngã chẳng phải là cái ngã to tưởng, chẳng phải là cái Đại ngã trong Upanisatl mà là Đại tự tại. Đại tự tại vì có tám điều tự tại:

  1. Có thể thị hiện vi trần thân
  2. Thị hiện đầy đủ Đại thiên
  3. Có thể đem thân khắp Đại thiên này bay lên hư không nhẹ nhàng như đến nơi hương hơi sa thế giới mà không chướng ngại
  4. Thân Như Lai thường mở một cánh mà là m cho tất cả chúng sinh ở các cánh khác đều thấy
  5. Sâu căn đều tự tại
  6. Chứng được tất cả các pháp
  7. Diễn thuyết tự tại
  8. Như Lai khắp đầy tất cả chỗ như hư không

Trung Đạo vượt trên hai cực đối lập của tồn tại và không tồn tạiTrung Đạo vượt trên hai cực đối lập của tồn tại và không tồn tại

Trung Đạo: Siêu Việt Mọi Khái Niệm

Đại Bát Niết-bàn cũng là Phật tính, là Trung Đạo. Bởi chúng sinh chẳng thấy được Phật tính nên là vô thường, vô lạc, vô ngã và vô tịnh. Và cái Phật tính đó, cái Đại Niết-bàn đó vốn thường hằng ở nơi chúng sinh, nhưng từ xưa đến nay chúng sinh bị vô lượng phiêu bồng nạn nàng che phủ nên không thấy được.

Làm sao để chúng ta có thể đến được cảnh giới Niết-bàn thật sự? Đó là phải lửa tất cả khái niệm, khái niệm về ngã và ngã sở, về có và không, về thường và đoạn, về trong và ngoài phải vượt thoát mọi đối đãi cái của thế giới hiện tượng giới để chỉ cho chúng sinh thấu đạt vô ngã như thiện ác, tốt xấu, có không, sinh tử, Niết-bàn để là m cho tâm trở nên thanh tịnh.

Trung Đạo nghĩa là siêu việt ý niệm có và không. Khôi lạc ở đây chẳng nên hiểu lầm là tất cả rỗng không, không có gì hết. Vạn pháp sinh diệt lệ thuộc bởi nhân duyên; mà nhân duyên sinh và nhân duyên diệt đều không thật chỉ là tạm nên gọi là giả danh, giả có. Tất cả vạn sự vạn pháp đó cũng chỉ là giả danh và cũng chính là nghĩa của Trung Đạo vậy.

Khi đề cập đến một thực tại, một tên gọi cũng bao hàm hai tên gọi kia. Ví dụ: cái xe hơi trước mặt là do sự tổ hợp của nhiều yếu tố và được gọi là xe hơi hay đặt tên là ô tô. Nó là giả danh tạm gọi để phân biệt với cái thứ khác, chính nó là không thật và cũng là Trung Đạo.

Đối với ngã, ngã sở và ngã cháp, chúng ta nên hiểu chúng cũng chỉ là những khái niệm, được lập thành bởi nhiều yếu tố và do nhân duyên hòa hợp. Do nhân duyên hòa hợp nên chúng không có tự tính và vì thế nó là không. Thấy được bản chất của cái Ngã là “không” tức chúng ta cũng không thấy được bản chất của Niết-bàn là không là Trung Đạo. Cái không siêu việt mọi phàm trù có và không như là một phương tiện phá trừ tất cả kiến cháp, thiên kiến cũng như tà kiến vượt thoát mọi thứ ngã cháp và pháp cháp; nguyên nhân của phiêu bồng nạn nàng khổ đau và sinh tử luân hồi.

Con đường của Phật dạy là con đường Trung Đạo, con đường này không phải là lane giữa một sa lộ có ba “lane” mà là con đường vượt thoát cái thấy đối đãi sai biệt của thế giới hiện tượng giới. Phật tùy theo căn duyên chúng sinh mà giảng giải; thấy chúng sinh cháp vào ngã tức là cháp vào thường, Phật nói đương cháp vào thường. Khi nghe Phật nói vậy chúng sinh lại cháp vào đoạn và cứ như thế Phật phá tất cả kiến cháp của chúng sinh để dẫn chúng sinh đến một cái không thể nghĩ bàn được, mà cái đó chính do chúng sinh phải tự kinh nghiệm nó.

Từ phân tích này, ta bồng nhớ tới câu triết học Tây phương “Là nó, nhưng không phải là nó, mới là nó” – câu triết học này cũng đã chạm gần đến vô ngã của Phật giáo. Tuy nhiên, chỉ qua sự tu tập thực tiễn, chúng sinh mới có thể thực sự đạt được hiểu biết sâu sắc về vô ngã và giải thoát khỏi kiếp luân hồi.

Kết Luận: Con Đường Tu Tập Vô Ngã

Để thực sự phá phá cháp ngã và đạt được vô ngã, chúng ta cần phải:

Thứ nhất, nhận thức rõ ràng rằng cái ngã và ngã sở chỉ là khái niệm tạm thời do nhân duyên hòa hợp, chứ không phải một thực thể cố định vĩnh hằng.

Thứ hai, tiếp tục tu tập quán chiếu để từng bước vượt thoát các khái niệm về có, không, thường, đoạn để đến được Trung Đạo – cảnh giới siêu việt mọi đối đãi.

Thứ ba, thực hành những giới luật, định lực và tuệ minh để tâm trở nên thanh tịnh, không còn bị che phủ bởi phiêu bồng nạn nàng.

Đức Phật phá tất cả kiến cháp đối đãi sai biệt của hiện tượng giới chính để chỉ cho chúng sinh thấu đạt vô ngã và tìm thấy đường thoát khỏi khổ đau. Con đường này không dễ dàng, nhưng nếu chúng ta kiên trì tu tập theo lời Phật dạy, chúng ta chắc chắn sẽ có ngày đạt được giải thoát vĩnh cửu.

Related posts

Tri – Hành Hợp Nhất: Nền Tảng Giáo Pháp Phật Giáo

Administrator

Vì Sao Mất Hết Phước Lộc Do Tâm Dâm

Administrator

Tài Hùng Biện Xuất Chúng Của Tôn Giả Sư Tử

Administrator