Trong Đạo Phật, dấn thân có nghĩa là người con Phật đi vào cuộc đời, thông qua phương tiện hoằng pháp, giáo dục, văn hóa và từ thiện, mang nguồn sáng tuệ giác khai hoá đời sống nhân sinh. Đức tính dấn thân của Phật giáo thể hiện rất rõ qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỳ kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, vì lòng tư bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người.”
Tinh thần dấn thân phục vụ Chánh pháp của Ni giới được thành lập từ thời kỳ đầu. Khi Đức Phật cho phép Mahāpajāpatī Gotamī cùng 500 nữ nhân Sākya xuất gia vào mùa an cư thứ năm tại Tỳ Xá Lê, Ni Đoàn được thành lập, từ đây Ni giới có nhiều điều kiện thuận lợi để tu hành và đắc Thánh quả. Đặc biệt là chỉ Tôn Đức Ni cùng Tăng Đoàn dấn thân trên con đường hoằng pháp lợi sanh, thu thập đề chứng, nhờ đó mà Ni Đoàn phát triển nhanh chóng.
Thời phong kiến, tinh thần dấn thân phục vụ Chánh pháp của Ni giới Việt Nam còn rất khiêm tốn, gặp nhiều trở ngại bởi sự phân biệt giới tính (trọng nam khinh nữ). Tuy nhiên, qua nhiều giai đoạn lịch sử, đức tính dấn thân ở Ni giới Việt Nam ngày càng được bộc lộ, phát triển và ngày càng khẳng định tinh thần dấn thân chính là một trong những thế mạnh quý giá của Ni giới Việt Nam.
Ni giới Việt Nam tu tập và dấn thân phục vụ Phật pháp qua các thời kỳ lịch sử
Đức Tính Dấn Thân của Ni Giới Việt Nam Trong Xã Hội Phong Kiến
Ảnh Hưởng của Lễ Nghi Phong Kiến Đối Với Ni Giới
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ tư tưởng, triết học, học thuật và văn hóa Trung Hoa, cụ thể là từ nền Nho học phong kiến. Qua đó, những lễ nghi tập tục dưới thời phong kiến đã tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến đời sống của người dân nước Việt, nhất là đối với người nữ, chính những lễ nghi phong kiến đã tăng sự bất bình đẳng về giới tính và là rào cản lớn làm chậm sự phát triển nhiều mặt của nữ giới.
Nói về đức tính dấn thân của Ni giới trong xã hội phong kiến, thiết nghĩ cần tìm hiểu qua một số điểm cơ bản về lễ nghi phong kiến. Nhìn chung, lễ nghi phong kiến rất phong phú đa dạng, nhưng chung quy lại nó không ra ngoài “Tam cương – Ngũ thường” và “Tam tòng – Tứ đức”. Riêng “Tam tòng – Tứ đức” luôn được xem là bốn yếu tố cơ bản để hình thành nên nhân cách người phụ nữ và cũng là thước đo phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam mỗi thời đại.
Dưới thời phong kiến, Tam cương ngũ thường được xem là chuẩn mực đạo đức, đời sống chính trị, xã hội, đã được Khổng Tử đặt ra và nam giới phải theo, bên cạnh đó “Tam tòng – Tứ đức” dành cho nữ giới. Khải niệm về “Tam tòng”, theo sách “Lễ kỷ”, trong thiên “Giao đắc sinh” có ghi: “Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con”. Cũng trong “Lễ kỷ”, thiên “Hôn nghĩa” ghi rằng: “Ngày xưa, phụ nữ trước khi lấy chồng ba tháng, nếu Tổ miếu chưa hộ hộ, thì ra đó mà ở, nếu Tổ miếu đã hộ hộ thì vào nhà của tổng tộc ở. Dạy cho phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công.”
Thời phong kiến, “Tam tòng” được xem là những giáo điều mặc định sự tồn vong của phụ nữ, cũng là khuôn phép nghiêm khắc đối với tất cả mỗi người phụ nữ; nói về “Tứ đức”, đây là một giáo điều gắn bó hữu cơ với “Tam tòng”. Khái niệm về “Tứ đức”, theo sách “Chu lễ” trong chương “Thiên quản trọng tá” giải thích về Tứ đức như sau: “Quan cứu tận quản viện việc dạy học cho phụ nữ, dạy quan cứu ngũ (chín ngũ nữ dưới quyền mình) phụ công, phụ dung, phụ ngôn, phụ hành.”
Theo đó, “Công” là việc nữ công, gia chính, ý nói phải khéo léo trong may, vá, thêu, dệt, bếp nước, buôn bán, riêng đối với người phụ nữ tài giỏi hơn thì còn thêm cẩm, kỳ, thi, họa; “Dung” là hình ảnh người phụ nữ phải biết tôn trọng hình thức bản thân, phải hòa nhã, gọn gàng; “Ngôn” là lời ăn tiếng nói khoan thái, dịu dàng, mềm mỏng, “Hành” là đức tính hiếu thảo, trong nhà thì nịnh nà, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em hà nhà chồng, ra ngoài xã hội thì nhu mì, chín chắn, không hãm hĩnh, cay nghiệt.
Thoạt nhìn thì những nội dung về “Công – Dung – Ngôn – Hành” rất thuyết phục, vì đều hàm chứa những điều tốt đẹp mà người phụ nữ thời đại nào cũng cần phải có để hoàn thiện nhân cách bản thân, tuy nhiên thật ra những quy định này được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng nhằm giáo hoá người phụ nữ với mục đích để ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và nhất là về vai trò của nam giới.
Ni Giới Việt Nam Dấn Thân Dưới Ảnh Hưởng của Lễ Nghi Phong Kiến
Từ những giới hạn bị ràng buộc bởi những tập tục lễ nghi phong kiến, chúng ta sẽ thấy phần nào bức tranh sinh hoạt Đạo pháp của Ni giới dưới thời phong kiến, đó là bức tranh thụ động, khép mình an phận trong những công việc thường nhất của những bà vãi, những nữ tu chuyên lo bếp nước và vườn tước sau hè. Điều này đã cản trở rất lớn đến việc phát huy những phẩm chất tốt đẹp vốn có của Ni giới Việt Nam, là m hạn chế sự phát triển những giá trị tiềm tăng khác của Ni giới Việt Nam, như trong các lĩnh vực giáo dục, hoằng pháp và công ích cho đời sống xã hội.
Tuy nhiên, dù chịu sự tác động tiêu cực từ những lễ nghi tập tục phong kiến, nhưng nhờ ý chí tu hành và lòng yêu nước quả cảm, thời Hai Bà Trưng đã có những bậc nữ tu cũng đã dấn thân đánh đuổi giặc ngoài xâm phong kiến phương Bắc trước khi trở thành những bậc chân tu mô phạm.
Lịch sử ghi nhận, thời phong kiến nhà Nguyễn, trong dân gian không có chùa Ni, mà chỉ có trong chốn hoàng cung dành riêng cho các vị công chúa, công nữ và các vị nữ quan tướng kinh bái sám khi có nhu cầu, chẳng hạn như chùa Giác Hoàng do vua Minh Mạng (1820-1840) lập trong cung vào năm 1822 dành cho các vị nữ quan trong hoàng cung lễ Phật, sau đời vua Tự Đức (1847-1883) có chùa Hoàng Ân cũng chỉ dành riêng cho người trong hoàng tộc tu niệm. Qua điều này cũng nói lên tư tưởng trọng nam khinh nữ và sự phân chia giai cấp trong đời sống xã hội phong kiến đã gây nhiều thiệt thòi cho Ni giới.
Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ này, Ni giới Việt Nam đã xuất hiện nhiều tấm gương dấn thân vì Đạo pháp, tiêu biểu đó là Sư bà Diễn Trường (1863-1925), với quyết tâm hình thành những cơ sở giáo dục đào tạo nhân tài cho Đoàn thể Tăng giới. Khởi đầu Sư bà xây dựng một ngôi chùa trên khu đồi Dương Xuân thường (làng Thuận Hòa, xã Thủy Xuân, huyện Hương Thủy) rồi tác bạch với Hoà thượng Tâm Tĩnh Định để cung thỉnh ngôi Giác Tiên về trụ trì (chùa được Hoà thượng Tâm Tĩnh Định đặt tên là chùa Trúc Lâm), sau này chùa Trúc Lâm trở thành nơi đào tạo Tăng, Ni nổi tiếng của Phật giáo trong cả nước.
Phát huy đức tính dấn thân, Sư bà còn lập ni xá dẫn dắt các vị nữ tu như Chơn Hương, Diệu Hương, Giác Hải tu học, sau này tất cả đều thành tài và đều trở thành những bậc Ni trưởng tôn túc đầu tiên của Ni giới miền Trung, chính tinh thần dấn thân vô ngã của Sư bà Diễn Trường đã tác động tích cực đến tinh thần tu học của tứ chúng và Ni giới nói riêng.
Lịch sử ghi nhận, thời phong kiến nhưng vào những năm 1930 và trước đó không lâu, nổi bật lên bằng công cuộc chấn hưng Phật giáo trên quy mô cả nước, trong giai đoạn này, nhân tài Ni giới khắp cả ba miền Bắc – Trung – Nam đã phát huy đức tính dấn thân và gó p phần đáng kể vào sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nói chung và Ni giới nói riêng, làm nền tảng cho sự nghiệp giáo dục và tu học của các thế hệ Ni giới sau này.
Từ những bước chân dấn thân vô ngã của chỉ Tôn Đức Ni tại miền Nam trong thời kỳ này đã dấy lên không khí hoạt động giáo dục rất sôi nổi, các lớp Phật học gia giáo, các khóa Trường hương, Trường hạ tại miền Nam được tổ chức khắp nơi, hoạt động của Ni giới được đẩy mạnh, nhân vật tiêu biểu là Sư bà Diệu Tĩnh. Sư bà từng dịch kinh nhất tục, viết bài cho tạp chí Từ Bi Âm kêu gọi chấn hưng Ni phái, người đảm nhận ngôi vị giáo thọ Ni đầu tiên và trẻ tuổi nhất trong lịch sử Ni giới Nam bộ.
Với tinh thần dấn thân không mệt mỏi, trong giai đoạn cuối của thời cận đại, từ 1930 đến 1945, tại chùa Viên Minh ở Hà Nội, quỹ Ni trưởng Đàm Kiên, Ni trưởng Đàm Chất, Ni trưởng Đàm Nghĩa, Ni trưởng Đàm Hinh, Ni trưởng Đàm Thuần thành lập Ni trường, tạo môi trường giáo dục tập trung cho Ni giới miền Bắc. Năm 1930, Ni trưởng Đàm Thu (1885-1967) tiếp tục sự nghiệp giáo dục đào tạo Ni tài, góp công rất lớn trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của Phật giáo tại miền Bắc giai đoạn cuối thời cận đại.
Tại các tỉnh miền Trung, nhất là tại Huế, thời đó việc tu học đều phải nương theo Tăng, trong hoàn cảnh này, Sư bà Diễn Trường xây dựng chùa Trúc Lâm là cơ sở giáo dục đào tạo nhân sự cho Giáo hội, đồng thời cũng đứng ra thành lập Ni xá riêng cho Ni giới. Quỹ Ni trưởng Chơn Hương, Ni trưởng Diệu Hương, Ni trưởng Giác Hải, đều xuất thân từ đây và đều trở thành những bậc tôn túc của Ni giới miền Trung đầu thế kỷ XX, nổi bật có Sư bà Diệu Không (1905-1997) là nhân tố tích cực vận động thành lập Hội An Nam Phật học Trung kỳ (1932), góp phần chấn hưng Phật giáo khu vực miền Trung.
Tại miền Nam, nhất là khu vực Gia Định, vào năm 1934, Sư bà Diệu Tĩnh cùng quỹ Sư bà Diệu Tấn, Diệu Tính, Diệu Thuần thành lập chùa Ni Từ Hóa, sau đó một năm, chùa được dời sang Tân Sơn Nhất và đổi hiệu Từ Hóa thành Hải Âm Ni Tự, đây là chùa Ni đầu tiên vùng Gia Định. Sư bà Diệu Tĩnh là ngôi sao sáng trên bầu trời Phật pháp ở phương Nam thời cận đại. Cùng thời, Sư bà Diệu Tấn (1910-1947) đứng ra thành lập Ni trường Kim Sơn (1939) là cơ sở giáo dục quy mô đầu tiên của Ni giới Nam bộ, đáp ứng kịp thời nhu cầu học Phật của Ni chúng khu vực Sài Gòn – Gia Định, đây là một trong những sự kiện giáo dục nổi bật của Phật giáo Nam bộ.
Ni trường Kim Sơn và sự nghiệp giáo dục của Sư bà Diệu Tấn đã góp phần đào tạo nguồn nhân sự đặc dụng cho Ni giới sau thời chấn hưng Phật giáo. Lúc bấy giờ, miền Nam nổi lên bậc pháp sư Ni danh tiếng, đó là Sư bà Diệu Kim, năm 1940, Sư bà làm thiên chủ kiêm pháp sư Ni tại Trường hạ Giác Hoàng (Bà Điểm), mở lớp dạy Ni tại chùa Bảo An và được chỉ tôn đức Trường hạ chùa Thiên Phước (Tân Hương – Mỹ Tho) cung thỉnh làm Pháp sư Ni giảng kinh luật trong ba tháng, Sư bà Diệu Kim là một trong số pháp sư Ni hy hữu ở miền Nam giai đoạn này.
Đức Tính Dấn Thân của Ni Giới Việt Nam Trong Xã Hội Hiện Đại
Nếu như trong thời cận đại, Ni giới Việt Nam từng có các bậc tiên phong dấn thân trong lĩnh vực giáo dục, hoằng pháp như Sư bà Đàm Thái, Sư bà Diễn Trường, Ni trưởng Đàm Kiên, Ni trưởng Đàm Chất, Ni trưởng Đàm Nghĩa, Ni trưởng Đàm Hinh, Ni trưởng Đàm Thuần, Ni trưởng Đàm Thu (miền Bắc); Sư bà Diệu Không, Ni trưởng Diệu Hương, Ni trưởng Hương Đạo (miền Trung); Sư bà Diệu Tĩnh, Sư cô Hồng Nga, Sư bà Diệu Tấn, Sư bà Diệu Kim (miền Nam)… thì trong xã hội hiện đại, Ni giới Việt Nam cũng xuất hiện các bậc tiên phong dấn thân không hề mệt mỏi trên khắp các lĩnh vực giáo dục, hoằng pháp, từ thiện xã hội, văn hóa, sáng tác, biên soạn, dịch thuật như quỹ Sư bà Như Thanh, Ni trưởng Huyền Học, Ni trưởng Tĩnh Nguyên, Ni trưởng Giác Nhân, Ni trưởng Trí Hải, thậm chí còn dấn thân vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, điển hình như Ni trưởng Huỳnh Liên, Ni trưởng Ngoạt Liên.
Đặc biệt, vào thời hiện đại, đức tính dấn thân cũng được phát huy cao độ và thể hiện rộng khắp trên nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, tạo dấu ấn thăng hoa, phát triển mạnh mẽ trong bức tranh chung của Phật giáo thời đại.
Trước hết, điều giúp cho Ni giới năng nổ tích cực dấn thân trong thời hiện đại chính là vấn đề bình đẳng giới đã được xã hội quan tâm đúng mức, theo đó, việc Ni giới dấn thân trên các lĩnh vực hoạt động của Phật giáo cũng đã được chỉ tôn đức Tăng giới công nhận và đồng viên hỗ trợ, đây là đòng cơ quan trọng để Ni giới Việt Nam khẳng định mình trong hoạt động giáo dục và trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, cũng như dấn thân tham gia các hoạt động trên nhiều lĩnh vực trong và ngoài môi trường Phật giáo.
Thời hiện đại là thời kỳ văn minh tiến bộ với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, cùng vô vàn phương tiện tiện ích thời đại mang đến, nhờ đó Ni giới Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong quá trình dấn thân phục vụ đạo pháp và dân tộc. Ni giới thời nay đa phần đều được theo học các chương trình Phật học các cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các chương trình ngoài Điển, nên sở hữu một trình độ Phật học và thế học nhất định, đáng nói là ở thời hiện đại có rất nhiều vị Ni đạt thành quả học tập rất cao ở bậc đại học và sau đại học, nhiều vị có bằng thạc sĩ, tiến sĩ ở nhiều bộ môn và lĩnh vực, nên có nhiều điều kiện đóng góp vào công tác giáo dục của Giáo hội.
Bên cạnh đó, việc dễ dàng in ấn kinh Điển, thông tin truyền thông và hoạt động báo chí cũng là những thuận lợi để chỉ Ni dấn thân phục vụ đạo pháp, trong đó có những vị Ni có thể tự chuyên tải các thời pháp thoại hay buổi thuyết giảng lên mạng youtube hay facebook, tham gia giảng dạy đào tạo từ xa qua mạng internet hay những chương trình giáo dục phần mềm mang tính đặc thù của Phật giáo. Đặc biệt, trong quá trình dấn thân phục vụ đạo pháp, nhiều vị Ni trẻ có năng lực đã đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động văn hóa, thông tin, phiên dịch, trước tác, biên soạn phục vụ tại các kỳ Đại lễ truyền thống của Phật giáo như Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc, các kỳ Đại hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hay tại Hội nghị Nữ giới Phật giáo Thế giới Sakyadhita lần thứ 11 vào năm 2010 tại chùa Phổ Quang (Thành phố Hồ Chí Minh) đã khẳng định năng lực, vị trí của Ni giới Việt Nam trong quá trình dấn thân phục vụ.
Nhìn chung đức tính dấn thân của Ni giới Việt Nam thời hiện đại được phát huy mạnh mẽ không chỉ ở lĩnh vực giáo dục, hoằng pháp và từ thiện xã hội, mà còn được phát triển mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực xã hội khác, chẳng hạn như tại miền Nam, giai đoạn 1945-1975, xã hội có nhiều biến động lịch sử, trước cảnh đông bão và tín đồ Phật giáo chịu cảnh áp bức bất công, Ni trưởng Huỳnh Liên (1923-1987) tích cực dấn thân vận động chỉ Ni và tín đồ Phật tử tham gia vào các phong trào đấu tranh vì hòa bình thống nhất đất nước, vì sự trường tồn đạo pháp.
Khi đó Tĩnh xá Ngộc Phương là trung tâm của Ni giới hệ phái Khất sĩ do Ni trưởng Huỳnh Liên xây dựng, Ni trưởng là nhân vật tiêu biểu cho tinh thần dấn thân ngoan cường rất bản lĩnh của Ni giới Việt Nam. Đức tính dấn thân của Ni giới Việt Nam trong xã hội hiện đại, từ năm 1945 đến năm 1975, đã thể hiện mạnh mẽ trong các hoạt động giáo dục, giai đoạn này Ni giới xuất hiện nhiều chân dung nữ lưu kiệt xuất làm rạng rỡ cho Ni giới miền Nam, đó là quỹ Ni trưởng Huyền Học, Ni trưởng Liễu Tính, Ni trưởng Như Hoa (chùa Viên Giác, Bình Thạnh), Ni trưởng Huyền Huệ, Ni trưởng Như Chí, Ni trưởng Huỳnh Liên, Ni trưởng Trí Hải, Ni trưởng Hải Triều Âm…
Sau năm 1975, ở các tỉnh phía Nam, Tăng, Ni, Phật t