Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Bát Chính Đạo: Con Đường Giải Thoát Toàn Vẹn Cho Người Tu Học Phật

Trong suốt hai ngàn năm lịch sử Phật giáo, Bát Chính Đạo (Ariya Atthangiko Maggo) luôn được coi là hạt nhân của giáo pháp Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật chưa bao giờ dạy một phương pháp nào khác để giải thoát hoàn toàn ngoài con đường này. Đây không phải là một giáo lý tự thương hay tôn vinh bản ngã, mà là con đường duy nhất dẫn đến trí tuệ vượt trội, lòng từ bi vô lượng, và cuối cùng là Niết-bàn. Bát Chính Đạo là những bước chân của tất cả các vị Phật, các hành giả, và những vị Thánh nhân đã chứng ngộ giải thoát. Khi áp dụng Bát Chính Đạo vào tu tập hàng ngày, chúng ta không chỉ học Phật mà còn sống Phật, biến mỗi khoảnh khắc của cuộc sống thành hành trình thiêng liêng hướng đến giác ngộ.

Hành thiền định tại chùa - Con đường tu tập thiền chỉ của Phật giáo Việt NamHành thiền định tại chùa – Con đường tu tập thiền chỉ của Phật giáo Việt Nam

Bát Chính Đạo Là Gì? Ý Nghĩa Trong Phật Học Nguyên Gốc

Bát Chính Đạo là phương pháp tu học cơ bản nhất của Phật giáo nguyên gốc, là giáo lý nền tảng trong Tứ Đế – bốn chân lý thiêng liêng. Khi các hành giả và thiện sinh muốn thành tựu chính trị, đạt đến trí tuệ và giác ngộ giải thoát, họ nhất định phải nương vào con đường Bát Chính này. Nếu hành giả thực hành và giảng dạy các phương pháp khác mà vẫn dựa vào tám chi phần chính của Bát Chính Đạo, thì quyết định sẽ đạt được các quả vị của Sa-môn và có thể bước vào giải thoát toàn vẹn.

Thuật ngữ Phật học trong các bản kinh Pali gốc là “Ariyo atthangiko maggo” (Ông Chính Đạo), trong tiếng Phạn là “Ārya ‘ṣṭāṅga mārgaḥ”. Thuật ngữ này cũng được gọi bằng nhiều tên khác như Bát Thánh Đạo, Bát Chi Thánh Đạo, hay gọi tắt là Bát Chính, Bát Đạo, Bát Chi, Bát Pháp – tất cả đều chỉ cùng một con đường giải thoát duy nhất. Điểm đặc biệt là Bát Chính Đạo không phải là một con đường tùy tiện, mà là con đường duy nhất mà tất cả các vị đã chứng đạo đều phải đi qua để hết thảy các lậu hoặc được tiêu diệt.

Hành giả có thể tiến vào giải thoát nhờ Ngũ Bảy Giác Chi, Bốn Niệm Xứ, Bốn Chính Cần, Năm Căn, Năm Lực… nhưng tất cả những cánh cửa ấy đều được bao hàm và hỗ trợ bởi Bát Chính Đạo. Trong cuộc sống hàng ngày, phương pháp tu hành của người xuất gia chính là thực hành Bát Chính Đạo. Các hành giả Khất sĩ, nam nữ cư sĩ và thiện sinh thực hành áp dụng Bát Chính Đạo tức là đang áp dụng con đường tám nhánh dẫn đến giải thoát khỏi Khổ Đế, thành tựu chính trị, chứng đạt Niết-bàn.

Tám Chi Phần Chính Của Bát Chính Đạo: Con Đường Toàn Diện

Hành giả Khất sĩ và nam nữ cư sĩ khi thực hành áp dụng giáo pháp cần hiểu rõ tám chi phần của con đường Bát Chính Đạo này:

1. Chính Kiến – Nền Tảng Của Trí Tuệ Chân Chính

Chính Kiến (Sammā-diṭṭhi trong Pali) là chi phần đầu tiên trong Bát Chính Đạo. Nó là phá vỡ vô minh và khiến ánh sáng trí tuệ chiếu sáng bóng tối của tâm. Chính Kiến tức là thấy cái thật là thật, sai là sai, chân lý là chân lý, không bị che lấp bởi những lý luận mù quáng. Hành giả áp dụng Chính Kiến chính là người đã có cái thấy chân chính vượt qua không gian và thời gian nhờ trí tuệ. Hành giả đó đạt được cái nhìn trung đạo (Majjhima patipadā), không bị vướng kết trong bất kỳ lý luận nào, không bị lạc vào những tri thức khoa học để vượt thoát khỏi ngã và pháp.

Chính Kiến là điểm cốt lõi, trương tâm của Bát Chính Đạo. Trong tám chi phần này, chúng tương quan và tương duyên lẫn nhau. Thực hành thiền định hay tu tập Tứ Niệm Xứ ở cấp độ cao nhất thì hành giả cần biết rằng chúng vẫn hành động đồng thời chứ không phải bước đi theo từng bước hoặc thực hành hết chi phần này đến chi phần khác theo số thứ tự. Dù ở mức độ bắt đầu và thấp nhất cũng vậy, mỗi chi phần trong Bát Chính Đạo đều được tác động với một mức độ nào đó của Chính Kiến.

Chính Kiến là sự tự trí như thật bản chất của thế gian. Hành giả thực hành và tu tập cần phải có một sự hiểu biết rõ ràng về Tứ Thánh Đế. Đó là: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Chính Kiến là kết quả của việc hành thiền định liên tục, một hành giả và thiện sinh tu tập thiền định hết sức nhiệt tâm và thần trọng của nơi tâm; công thức của sự đạt trí tuệ là cái nhìn có Chính Kiến, một người có Chính Kiến thì sẽ không có cái nhìn mù mờ về mỗi hiện tượng của các pháp.

Hành thiền định sâu - Phương pháp tu tập Chính Kiến qua Tứ Niệm XứHành thiền định sâu – Phương pháp tu tập Chính Kiến qua Tứ Niệm Xứ

2. Chính Tư Duy – Suy Nghĩ Chân Chính Dẫn Hành Động

Chính Tư Duy (Sammā-saṁkappa trong Pali) là chi phần thứ hai, tức là suy nghĩ chân chính. Luôn dùng tư duy chân chính để tu đạo, thực hành đạo và hướng đạo, giúp cho mỗi người áp dụng và tu tập đúng với con đường Bát Chính Đạo để ra khỏi sanh tử luân hồi. Khi hành giả và thiện sinh đã làm chủ tâm, không để tâm làm chủ mình, thì lúc ấy hành giả tu tập chính trị bao gồm hai chi đầu, đó là Chính Kiến và Chính Tư Duy. Khi hành giả và thiện sinh áp dụng Chính Tư Duy, tức là luôn có định niệm và tư duy chân chính.

Chính Tư Duy có nghĩa là hành giả và thiện sinh thực hành phương pháp Tứ Niệm Xứ trong cuộc sống hàng ngày để luôn có định niệm và tư duy chân chính; tức là trong quá trình hành pháp và hoằng pháp giúp đời giúp người, hành giả luôn có những tư duy liên quan đến các cách tư duy như sau:

Trong quá trình tu tập Bốn Niệm Xứ và thực hành Tứ Vô Lượng Tâm, hành giả và Thiện sinh cần phải phát triển đồng thời những tư duy này, vì chúng cần được tu tập và mở rộng đến muôn loài chúng sanh không phân biệt chủng tộc, giai cấp, dòng dõi hay tín ngưỡng nào, hay loài vật nào… Cũng như trong quá trình tu tập và làm đạo, hoặc chia sẻ kinh nghiệm học hành pháp v.v… thiện sinh tuyệt nhiên không được nghĩ và xem rằng mình ban phát lòng từ, lòng bi mẫn đến cho ai đó hoặc loài nào đó, vì như thế là đã thể hiện bản ngã và tự ngã trong cái tội, cũng tự coi mình là trung tâm và ích kỷ thì đó không phải là tư duy hành pháp chân chính, nó không phải là tư duy chân chính.

Hành giả áp dụng và tu tập Bát Chính Đạo trong chi phần Chính Kiến, tức trí tuệ thì cũng tương duyên đang thẩm nhập Chính Tư Duy; Chính Kiến và Chính Tư Duy đi đôi với nhau và không bao giờ mất chúng trong tu tập niệm xứ và cách sống trong đời sống của mình; cái đó gọi là tự giác đi đôi với lòng bi mẫn. Áp dụng và thực hành Bát Chính Đạo trong hai chi phần này như thế chúng ta sẽ thấy đâu là người có trí giàu lòng bi mẫn, vị tha và vô ngã, và đâu là người vô minh, chấp thủ với bản ngã, và lòng tham muốn, vị kỷ, thù hận và báo hình thì không thể nào đi chung cùng với trí tuệ. Nghệ thuật của an vui, hạnh phúc và giải thoát, tức là nghệ thuật phát triển lòng bi mẫn đi đôi với tự giác trong đời sống.

3. Chính Ngữ – Lời Nói Thể Hiện Chân Lý

Chính Ngữ (Sammā-vācā trong Pali) là lời nói chân chính. Hành giả Khất sĩ cùng nam nữ cư sĩ thực hành và áp dụng giáo pháp sẽ nhận thấy trong thuật ngữ Phật học Pali từ cụm từ sammā-vācā. Tức là những lời nói thể hiện chân lý ngay tại đây và bây giờ, những lời nói về Tứ Diêu Đế để cho người nghe thấu hiểu được chân lý.

Thực hành và áp dụng Chính Ngữ tức là:

  • Không nói dối, đồng thời phải luôn luôn nói sự thật.
  • Không nói lời ly giác gây sự bất hòa và chia rẽ, đồng thời phải nói những lời nào đưa đến sự hòa hợp và đoàn kết.
  • Không nói những lời thô ác, cộc cằn, thay vào đó phải nói những lời tử ái, tế nhị.
  • Không nói những lời vô ích, ngỗi lề đôi mách, thay vào đó phải nói những lời có ý nghĩa và không bị bác trí khiến trách.

Nếu không nương vào sự áp dụng ngôn từ thì hiện thực tối cao của chân lý không được trình bày; và không đến chế hiện thực tối cao thì không thể trực chứng được chân lý; nghệ thuật của sự chân thật chính là ngôn từ thể hiện chân lý ngay tại đây và bây giờ bằng cái nhìn Chính Kiến.

Hành pháp từ bi - Hành động thể hiện tâm từ bi vô tư trong Phật giáoHành pháp từ bi – Hành động thể hiện tâm từ bi vô tư trong Phật giáo

4. Chính Nghiệp – Hành Động Sinh Ra Từ Tâm Chân Chính

Chính Nghiệp (Sammā-kammanta trong Pali) là những hành nghiệp chân chính; có nghĩa là suy nghĩ, lời nói và hành động tương tác tương tục với Chính Kiến. Khi một người có Chính Kiến rồi thì suy nghĩ và hành động đều là chân chính. Chính Nghiệp là cách áp dụng trong hành động và ngôn từ đều thể hiện đạo lý chính trị để người khác khi nghe hoặc nhìn thấy là nhận được đạo lý, nhờ đó có thể khai mở chân lý nơi chính mình, những hành động được xuất phát từ nơi thân của mình, nơi lời nói của mình được thể hiện trền vạn vận với cái đạo lý giác ngộ giải thoát, và khai mở trí tuệ cho mỗi người để họ nhận ra được chân lý nhiệm màu, đó được gọi là Chính Nghiệp.

Về mặt áp dụng và thực hành của Chính Nghiệp đối với nam nữ cư sĩ và thiện sinh, tức là trách:

  • Không sát sanh
  • Không trộm cắp
  • Không tình hạ hạng (ngoại tình, dâm dục).

Khi thực tập Chính Nghiệp là khi đó hành giả đồng thời cũng phải trau dồi lòng bi mẫn, sự rộng lượng và đời sống đơn giản trong sạch. Nghệ thuật của sự hài hòa giữa nội dung và hình thức chính là sự nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi trong một đời sống rộng lượng và đơn giản. Một thiện sinh có lối sống là lao động và đạo đức thì nó là nền tảng cho sự phát triển tinh thần, sự an lạc trong thiền định, là nguồn năng lượng nuôi dưỡng đời sống tâm linh và là làm cho tâm được vững và ng, an tĩnh. Không có một đời sống an lạc trong một lối sống dục lạc vô độ, tham lam và ích kỷ; nghệ thuật của cuộc sống thánh thời trong đời sống và trong thiền vị chính là sự nhận diện, từ bỏ và chuyển hóa cuộc sống vô độ, tham lam và ích kỷ.

5. Chính Mạng – Cách Sống Phù Hợp Với Đạo Phật

Chính Mạng (Sammā-Ājīva trong Pali) tức là có một đời sống chân chính. Hành giả thực hành phương pháp này tức là nhận diện, từ bỏ, sống trong một đời sống chánh mạng là nên từ bỏ buôn bán:

  • Vũ khí (từ bỏ),
  • Súc vật để giết thịt (từ bỏ),
  • Người – ở đây muốn nói đến tình trạng mua bán nô lệ rất thịnh hành vào thời xưa và thời Đức Phật (từ bỏ), ngày nay trong thời hiện đại nạn buôn người cũng còn diễn ra (từ bỏ).
  • Các loại thức uống có men gây nghiện, say (từ bỏ),
  • Các loại độc dược (từ bỏ).

Một sự nghiệp giàu mạnh đáng trân quý và thưởng thức chính là một sự nghiệp được đặt trên nền của những thiện ý, vì an lạc và hạnh phúc của chính mình, của gia đình mình và của cả hành tinh này. Nghệ thuật của sự xây dựng và phát triển sự công bằng xã hội chính là những nguyên tắc đạo đức được nhằm vào việc làm cho xã hội an ổn bằng cách thức đấy sự hợp tác, hòa hợp và những quan hệ chính đáng giữa con người với nhau.

Một thiện sinh có lối sống là nhân mạnh và đạo đức thì nó là nền tảng cho sự phát triển tinh thần, sự an lạc trong thiền định, là nguồn năng lượng nuôi dưỡng đời sống tâm linh và là làm cho tâm được vững và ng, an tĩnh. Không có một đời sống an lạc trong một lối sống dục lạc vô độ, tham lam và ích kỷ; nghệ thuật của cuộc sống thánh thời trong đời sống và trong thiền vị chính là sự nhận diện, từ bỏ và chuyển hóa cuộc sống vô độ, tham lam và ích kỷ. Nghệ thuật của sự nhận diện cái đẹp, tức là nhận thấy rằng thân mạng này luôn cũ đi và luôn mới ra trong từng giây, từng phút; nhận diện và nuôi dưỡng năng lượng như vậy chúng ta sẽ nhận thấy chúng ta luôn đẹp, vì chúng ta nhận thấy vô thường và có năng lượng chính niệm.

6. Chính Tinh Tấn – Nỗ Lực Liên Tục Trong Tu Tập

Chính Tinh Tấn (Sammā-vāyāma trong Pali), tức là người luôn luôn nhiệt tâm, chuyên cần an trú ở nơi chính niệm, nuôi dưỡng định niệm để người đó sống trong từng khoảnh khắc mới mở của hiện tại, không lầm lẫn, không bao giờ bị mê mờ giữa vọng niệm và chính niệm. Luôn nhận biết chứng một cách rõ ràng có tự trí chân chính, chính vì vậy mà thuật ngữ trong tiếng Pali mà thiện sinh có thể nhận thấy là sammā-vāyāma, tức là Đức Phật đề cập đến trạng thái thức tỉnh tinh tấn, tinh tấn tức là thức tỉnh – thức tỉnh chính là tinh tấn.

Thiện sinh thực hành và áp dụng Bát Chính Đạo trong chi phần này tầm hiểu là sự cố gắng kiên trì trong tỉnh thức và có niệm lực. Để ngăn ngừa những tư duy ác, bất thiện chưa sanh, không cho sanh khởi trong tâm hành giả, và đoạn trừ những tư duy ác đã sanh. Hành giả và Thiện sinh làm cho sanh khởi và phát triển những tư duy thiện chưa sanh. Từ đó thúc đẩy và duy trì những tư duy thiện đã sanh cũng thêm tăng trưởng và dối dạo.

Một tâm hồn trong sáng vẫn tĩnh lặng là nhờ siêng năng định chỉ và đoạn trừ những tư duy ác, bất thiện. Luôn cảnh giác và chặn đứng những tư duy không là nh mạnh, đồng thời tu tập, thúc đẩy, duy trì những tư duy thiện là nh vẫn trong sáng đang sanh trong tâm hành giả và trong đời sống hàng ngày. Một đời sống an bình và một thế giới hòa bình nhờ sự nuôi dưỡng và phát triển tư duy là nh mạnh và trong sáng. Nghệ thuật của sự phát triển an lạc và hòa bình chính là sự làm chủ lời nói và hành động của mình, nhìn một cách toàn diện trong óc tư duy của mình bằng những tư duy chân chính, và tránh những ý nghĩa điên đảo thì con người và thế giới bên ngoài sẽ an bình.

7. Chính Niệm – Sự Tỉnh Giác Liên Tục

Chính Niệm (Sammā-sati trong Pali) là một danh từ có nguồn gốc từ chữ Pali, trong tiếng Phạn là samyak-smṛti; là thuật ngữ mà các hành giả Khất sĩ và Thiên sinh thực tập Chính Niệm ngày nay thường nhận thấy trong hầu hết các Kinh Điển cốt lõi trong Đạo Phật. Chính Niệm tức là sự tỉnh giác, không quên niệm, biết rõ các pháp một cách trần vẹn, biết rõ những gì phát sanh ngay trong mỗi giây phút của hiện tại, bây giờ và ở đây. Chính Niệm là sự tự trí được những gì đang có mặt, đang xảy ra (biết rõ).

Chính Niệm là một loại năng lượng niệm chân chính và nhất niệm này đi theo ta ngàn đời muôn kiếp về sau không còn thay đổi được nữa và đến khi đạt giải thoát. Thiện sinh thực hành và áp dụng Bát Chính Đạo trong chi phần Chính Niệm, tức là phát khởi niệm hay gán sự chủ tâm vào các hoạt động của Thân, Thọ, Tâm, Pháp; mà Đức Phật đã đề cập trong Tứ Niệm Xứ chính là “Thân hành niệm: Kāyanupassanā”. Niệm và nhận diện “Các cảm thọ: Vedanānupassanā”, tức là niệm Thọ trong Tứ Niệm Xứ. Niệm và nhận diện “những hoạt động của tâm: Cittanupassanā”, tức là Tâm hành niệm trong Tứ Niệm Xứ. Niệm và quán “Các pháp: Dhammānupassanā”, tức là niệm Pháp trong Tứ Niệm Xứ.

Khi một hành giả và thiện sinh có niệm lực chính là thực hành một cách thiện xảo và khéo léo trong tương tác lẫn nhau với Chính Tinh Tấn, nhờ có năng lượng Chính Niệm và luôn tinh tấn niệm lực định niệm trong hành thiền mà có thể chặn đứng sự khởi sanh của những tư duy bất thiện, đồng thời phát triển những tư duy thiện đã có mặt. Nghệ thuật của sự Chính Niệm chính là sự thận trọng đối với những hành động thân, khẩu, ý của chính mình; một tâm hồn tích cực và tĩnh lặng phát sinh theo sau năng lực Chính Niệm, ngăn ngừa và tiêu trừ sự tổn hại nhẫu nát của tâm, tạo đội lực cho một sự tiến bộ của tâm và nuôi dưỡng một tâm hồn là nh mạnh trong đời sống. Nghệ thuật của sức mạnh chính là sự buông xả những tâm hồn náng trâu ngàn đời trong đời sống, thân và tâm khỏe không phải là nhấc chúng lên mạnh mà là đặt chúng xuống một cách nhẹ nhàng.

8. Chính Định – An Định Vững Chắc Của Tâm

Để nháp định và có Chính Định thì phải loại bỏ vọng tưởng, tức là loại bỏ những suy nghĩ lung tung tự động khởi niệm trong đầu và trong tâm không có vọng niệm, sau một thời gian thực hành và tu tập thiền, hành giả và thiện sinh đạt được Chính Niệm tỉnh giác, nghĩa là tâm không loạn động như trước, những suy nghĩ vừa mới manh nha nội lên đã bị phát hiện và loại bỏ ngay khi đó.

Chính Định (Sammā-samādhi trong Pali) là sự an định vững chắc của tâm, chính sự tập trung đã là làm cho tâm an trụ và khiến cho nó không bị dao động, xáo trộn. Trong thiền ta có Tứ Thiền, nghĩa là bốn cấp độ nhập định được chia ra từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, nhưng xét về công phu tu thiền chúng ta có Tứ Thiền. Để thành tựu những tính chất và trạng thái của Định, khi tu tập hành giả phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thành thang.

Hành giả và thiện sinh hành thiền với bốn mức thiền này đều có nhập và xuất theo đúng cách (

Related posts

Tu Là Chuyển Nghiệp (Phần 3): Sự Biến Hoá Tâm Thức Trên Đường Giải Thoát

Administrator

Tây Du Ký: Nội Chứng Trên Đường Hành Đạo

Administrator

Thiền Kim Cương: Vô Trụ Tâm và Giác Ngộ trong Đời Sống Hiện Đại

Administrator