Trong Phật giáo, mỗi tình trạng tâm lý của chúng ta đều là nguyên nhân trực tiếp tạo ra hậu quả trong cuộc sống. Ngu si, cùng với tham và sân, được coi là ba độc tố – những tâm hành thô bạo nhất trong tâm thức con người. Ngu si không chỉ là không biết, mà là sự mê muội sâu sắc về bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, Phật Thích Ca Mâu Ni đã dành hàng chục năm để truyền dạy, khuyến chúng ta đoạn trừ ba độc này, vì chúng là gốc rễ của mọi khổ đau. Để hiểu rõ hơn tại sao ngu si lại là nghiệp nhân chính của sự sanh tử luân hồi, chúng ta cần khám phá sâu về bản chất của nó và tác động thực sự của nó đối với cuộc sống và tinh thần tu tập của chúng ta.
Ngu Si Là Gì? Phân Biệt Giữa Biết và Hiểu Thực
Ngu si trong Phật giáo không phải là đơn giản không biết điều gì đó. Nó là trạng thái tâm không thể phân biệt được giữa cái thật và cái giả, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai trong mọi hiện tượng của thế giới này. Một người ngu si có thể tiếp xúc trực tiếp với sự thật nhưng vẫn không nhận ra. Họ lấy cái giả cho là thật, coi cái tài cho là chính pháp, xem cái xấu như cái thiện, và hiểu lầm cái hại như lợi ích.
Thế xuất thế gian, tất cả các pháp, những thứ nào là thật, những thứ nào là giả, bạn phải có năng lực phân biệt. Những thứ nào là chính pháp, những thứ nào là tà pháp; những thứ nào là phải, những thứ nào là trái; những thứ nào là thiện, những thứ nào là ác; thậm chí đến những thứ nào là hại, những thứ nào là lợi – nếu bạn vừa tiếp xúc liền thông đạt được tưởng tắn, thì bạn là người giác ngộ. Ngược lại, nếu những thứ này bày ra ngay trước mặt bạn, bạn đều không rõ ràng, lấy giả cho là thật, lấy tà cho là chính, lấy ác cho là thiện, đó chính là ngu si.
Sự khác biệt giữa ngu si nhiều và ít không thể đếm được, chủng loại của sức sanh, quả báo của sức sanh gần như bằng vô số. Chính vì hiểu biết có hạn này mà người ngu si luôn trong trạng thái mê muội, không thể thoát khỏi vòng luân hồi. Điều này là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự sanh tử không có kỳ.
Ba Độc Tố và Sự Khuyến Dạy Vô Hạn của Phật
Bởi vì nhu cầu cấp thiết này, nên đối với tham-sân-si, Phật đã nói ra rất nhiều pháp. Chúng ta đem ra cảnh báo, khuyến chúng ta phải đoạn tham-sân-si, nghĩ ra rất nhiều phương pháp, nhà Phật gọi là phương tiện khéo léo. Rất đáng tiếc là chỉ có số ít các đạo trang tu có thể thỏ được, có thể lĩnh ngộ được, chân thật hiểu được ý nghĩa của Phật, y giáo phụng hành; còn rất nhiều các đạo trang tu không tưởng tắn đối với việc này.
Phương pháp tu tập Phật giáo giúp giác ngộ và thoát khỏi vòng luân hồi
Tại sao nói họ không tưởng tắn? Vì họ không thể làm được, không là làm được chính là không tưởng tắn. Có một số người nói, “Tôi rõ ràng rồi nhưng tôi làm không được.” Nói rõ ràng rồi mà làm không được, lời nói này ta không thể tin tưởng. Chỉ có một loại tình huống là ta hiểu rõ vẫn chưa đủ thấu triệt thì ta làm không được. Đây là thật. Sự hiểu biết sâu sắc không chỉ là trí thức bề ngoài mà phải là sự thấu hiểu triệt để từ tâm.
Phật pháp đích thực là “biết khó nhưng hành dễ”. Bạn xem, nói tu hành, trên kinh Hoa Nghiêm, Thiên Tài Đồng Tử từ một đời viên thành Phật đạo, việc này có gì khó đâu? Có thể thấy được hành không khó. Trên kinh Pháp Hoa nói được công diều, Long Nữ tám tuổi thành Phật. Việc này nói rõ “hành dễ”.
Giác Và Mê – Một Niệm Chuyển Đổi Vận Mệnh
Phật pháp Đại Thừa thường nói: “Chúng sanh khác biệt với Phật ở một niệm”. Một niệm chuyển đổi lại, chúng sanh liền thành Phật, cái niệm này chính là Giác – Mê. Thích Ca Mâu Ni Phật lại phải nói pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội? Đây rõ ràng là nói với chúng ta “biết khó”, phải dùng thời gian dài đến như vậy để bạn chân thật đem vũ trụ nhân sanh, quá khứ, hiện tại, vị lai, những đạo lý này, nhân nhân quả quả làm cho bạn triệt để tưởng tắn, thông hiểu thấu đáo.
Thấu đáo tưởng tắn rồi thì chuyển đổi lại. Làm thế nào để chuyển? Tham sân si liền không còn, với tất cả pháp thế xuất thế gian không còn có lòng tham, sẽ không còn khởi tâm động niệm phân biệt chấp trước, bạn chỉ cần buông bỏ những thứ này thì bạn làm Phật rồi. Không buông bỏ được là phàm phu, không buông bỏ được là chưa rõ ràng. Làm rõ ràng rồi thì làm gì không buông bỏ được chứ. Bạn lại muốn hỏi, hiểu rõ ràng rồi vì sao còn phải buông bỏ? Sau khi hiểu rõ ràng rồi thì sẽ hiểu được “bất khả đắc”, khôn buông bỏ cũng phải buông bỏ.
Tam Tâm Bất Khả Đắc – Chân Lý Tối Thắng của Giáo Lý Tịnh Độ
Trên kinh Kim Cang nói rất rõ ràng, rất thấu triệt: “Tam tâm bất khả đắc”. Cái bạn năng đắc bất khả đắc, vạn pháp duyên sanh đều không có thật thể, cho nên ngay thể tức không thì không thể có được, “năng đắc, sở đắc” đều không thể được. Đây là chân tướng sự thật. Thích Ca Mâu Ni Phật nói sự việc này trong 22 năm, 22 năm mới làm cho những học trò này của Ngài khai ngộ được.
Sau đó ở trong tất cả cả cảnh giới mới chân thật làm đến được không khởi tâm không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, như vậy mới là trải qua đời sống chân thật, trải qua đời sống giác mê không mê, trải qua đời sống của Phật Bồ Tát, vĩnh ly ác đạo. Vĩnh ly ác đạo chính là vĩnh ly không còn tái tạo nhân ác, cho nên quả báo của ác đạo không còn. Đây là tiến trình giải thoát thực sự mà mỗi Phật tử cần hiểu rõ để theo đuổi.
Sự tu tập thanh tịnh của tâm hành dẫn đến giải thoát khỏi luân hồi
Niệm Phật Với Tâm Thanh Tịnh – Chìa Khóa Vãng Sinh Tây Phương
Ngày nay chúng ta đọc đoạn kinh này: “Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cảm thú, quyền phi nhuyễn đương chi loại”, câu này đọc được rất thoải mái, bạn không biết được ý nghĩa trong câu nói này sâu rộng đến đường nào, chân thật là không thể nghĩ bàn. Đây là một nguyên trong 48 nguyên, thứ thằng không gì bằng, cho nên điều thứ nhất thứ thằng trang nghiêm không thể nghĩ bàn, đạo lý chính ngay chỗ này.
Sau khi tưởng tắn, nếu chúng ta muốn vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc, giả như trong ý niệm của chúng ta vẫn còn tham sân si, thì chúng ta niệm Phật hiểu có được tốt hơn cũng không thể vãng sinh. Vì sao vậy? Vì thế giới Tây Phương Cực Lạc không có ba đường ác. Bạn phải hiểu rõ sự thật này, một câu Phật hiểu này của chúng ta phải đem niệm tham, niệm sân, niệm ngu si đoạn mất. Làm thế nào niệm mất?
Ở ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, ý niệm này mới sanh khởi thì dùng một câu A Di Đà Phật đánh mất đi ý niệm này. Ngưới xưa thường nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Một câu A Di Đà Phật này là giác. Dùng một câu danh hiệu A Di Đà Phật này đánh bật đi vọng niệm tham sân si. Niệm tham sân si vừa mới khởi lên thì niệm thứ hai chính là A Di Đà Phật. Niệm Phật như vậy thì quyết định được vãng sinh, ý nghĩa tương ứng cũng trên kinh đã nói.
Nếu như một mặt niệm A Di Đà Phật, một mặt vẫn nghĩ tham sân si thì không được, thì quyết định không thể vãng sinh. Các vị phải ghi nhớ, đây là Phật Bồ Tát nói với chúng ta: “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. Khẩu tịnh mà tâm không tịnh thì không ích gì, quyết định không thể vãng sinh. Tâm phải tịnh thì cõi Phật mới tịnh.
Niệm Phật Với Tâm Thanh Tịnh Và Tâm Từ Bi
Cho nên, niệm Phật phải biết niệm, đem ý niệm tham sân si của chúng ta niệm đi hết, phải niệm ra được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi của chúng ta thì quyết định được sanh. Hàm nghĩa trong câu này rất sâu rất rộng. Chúng ta học được rồi, chính mình niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ mới chân thật nắm chắc phần. Đây là bài học quan trọng nhất mà mỗi Phật tử cần ghi nhớ và tu tập trong từng khoảnh khắc của cuộc sống hàng ngày.
Khi niệm Phật với tâm thanh tịnh, chúng ta không chỉ đơn thuần lặp lại danh hiệu Phật mà còn phải xây dựng tâm tưởng về sự trang nghiêm, tâm từ bi của Tây Phương Cực Lạc. Tâm bình đẳng không có sự phân biệt giữa mình và người, mỗi câu niệm Phật là tiếng gọi từ tâm sâu kết nối với Phật Bồ Tát. Đây chính là con đường tu tập thực tế mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy trong hàng chục năm, nhằm giúp chúng ta vượt qua vòng luân hồi sanh tử và vãng sinh đến cõi Phật thanh tịnh.
Cùng nhau xây dựng cộng đồng Phật tử Việt Nam thực tập Pháp
Theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng.