Một trong những kết luận mà Phật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đẳng tạo hóa. Trong khoa học, theo lý thuyết bảo tồn vật chất và năng lượng thì chúng chỉ biến đổi chứ không được tạo ra, cũng không bị hủy diệt. Phật tử hoàn toàn đồng ý với điều này và cho rằng tâm cũng như thế. Tâm, trong Phật giáo là sự ý thức về các pháp, hữu tính hoặc vô tính. Ý thức không thể sanh hay diệt, chỉ có biến đổi mà thôi. Vì vậy, tái sinh chỉ là sự thay đổi của dòng tâm thức liên tục của một cá thể mà hiện nay, cơ sở vật chất của nó là một thân khác.
Nền Tảng Thực Nghiệm của Phật Giáo
Phật giáo dựa vào luận lý học và sự suy luận rất nhiều. Nhưng có khi nào Phật tử cần có được đức tin như trong các tôn giáo khác không? Phật giáo không đòi hỏi điều này. Ta có thể thấy được điều này từ định nghĩa về những gì hiện hữu. Những gì hiện hữu là “những gì ta biết được”, nếu không phải vậy thì nó sẽ không hiện hữu, ví dụ như lông rủa, sừng thỏ, mõi gà. Ta có thể tưởng tượng gà có mõi của người; ta có thể tưởng tượng một hình vẽ hoạt hình của con gà với cặp mõi; nhưng ta không thể thấy mõi nơi con gà, vì điều này không có thật. Nó không hiện hữu, vì nó không hề được biết đến.
Nhận thức được thực tại là thấy các pháp không hiện hữu theo sự tưởng tượng của ta, không thể xảy ra được như trên đây, theo cái nhìn trắng và đen. Các pháp uyển chuyển hơn và luôn sống động. Một người không thể làm được một việc gì hiện giờ, không có nghĩa là họ lúc nào cũng đắn đo, vì họ có thể làm những việc khác, trong vai trò của một người bạn, một người cha hay mẹ và những vai trò khác.
Đối thoại giữa Phật giáo và khoa học qua phương pháp suy luận đối thoại
Vai Trò Của Người Quan Sát Trong Việc Xác Định Thực Tại
Các nhà vật lý hạt nhân nhận mạnh về vai trò của người quan sát, khi định nghĩa bất cứ điều gì. Ví dụ, ở một khía cạnh nào đó, ánh sáng được xem như vật chất; và từ bình diện khác, nó là năng lượng. Ánh sáng hiện hữu dưới hiện tượng nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là khuôn khổ khái niệm mà người nghiên cứu dùng để phân tích nó. Vì vậy, các pháp tự chứng vốn không tồn tại một cách cố hữu như thế này hoặc thế kia, mà không liên hệ tới tâm thức nhận biết chúng.
Phật giáo cũng khẳng định như vậy: Các pháp hiện hữu tùy vào người quan sát và khuôn khổ khái niệm dùng để phân tích chúng. Ví dụ một vấn đề được xem là nan giải hay không tùy thuộc hoàn toàn vào người trong cuộc. Với một người có khái niệm rằng: “Trường hợp này không thể giải quyết được, mình không thể làm gì được”, thì vấn đề trở nên bế tắc. Trái lại, nếu người khác nghĩ rằng: “Vấn đề này thật là rắc rối và phức tạp, nhưng ta sẽ có cách khác để đối phó với nó”, thế thì người này cơ may mở hơn trong việc hóa giải vấn đề. Một vấn đề có thể rất nan giải cho người này nhưng đối với người khác lại không đáng kể. Nó tùy thuộc vào người quan sát, chứ các vấn đề tự chứng không to lớn như vậy. Vì vậy, khoa học và Phật giáo đều có cùng một kết luận: Mỗi hiện tượng tồn tại bằng những cách khác nhau, tùy thuộc vào người quan sát chúng.
Sự Liên Hệ Duyên Khởi trong Khoa Học Thần Kinh
Tương tự như thế, các nhà thần kinh học và các Phật tử cũng ghi nhận mỗi tương quan duyên khởi của vận pháp. Ví dụ, khi các nhà thần kinh học quan sát não bộ để tìm ra cơ chế nào giúp ta quyết định mỗi việc, thì họ không tìm ra một “bộ phận tạo quyết định” riêng rẽ nào cả. Trong đầu ta không có một con người bé nhỏ nào gọi là ‘tôi’ để thâu nhận các thông tin từ mắt, tai v.v… như trên màn ảnh của máy điện tử và có thể quyết định bằng cách nhấn một cái nút để tay chân hoạt động như thế này hay thế kia. Thực ra, mỗi quyết định đều là kết quả từ sự tương tác rất phức tạp của một mạng lưới khổng lồ của dây thần kinh, hóa chất và các dòng điện. Cộng tác với nhau, chúng tạo ra một kết quả, đó là một quyết định. Quá trình này xảy ra mà không hề có một cá thể nào tự tạo ra quyết định cả. Phật giáo cũng nhận mạnh điều này: Không có một cái “tôi” thường hằng và vững chắc nào ở trong đầu ta để tạo ra quyết định cho ta cả.
Khoa học thần kinh và Phật giáo đều công nhận sự liên hệ duyên khởi của quyết định
Theo thói quen, chúng ta nói: “Tôi đang cảm nghiệm điều này. Tôi đang làm việc này”, nhưng thực ra đó là kết quả của sự tương tác vô cùng phức tạp giữa nhiều yếu tố. Phật giáo và khoa học rất giống nhau ở điểm này. Sự lý luận về một điều nào đó có thể không được rõ ràng đối với ta ngay lập tức. Tuy nhiên, ta không thể chối bỏ một quan điểm, chỉ vì ta chưa hiểu nó. Nếu ta kiên nhẫn học hỏi và nghiên cứu, những gì trước kia ta không hiểu, có thể trở nên hợp lý.
Khái Niệm Thời Gian Trong Phật Giáo và Khoa Học
Trong đạo Phật, thời gian được định nghĩa như “một thước đo của sự thay đổi”. Ta có thể đo lường sự thay đổi bằng sự vận hành của các hành tinh hay vị trí của mặt trời trong không gian. Ta có thể đo nó bằng số lớp dự thính mà ta đã tham dự ở giảng đường trong một học kỳ – ta đã dự được mười hai lớp và còn lại hai lớp nữa. Ta cũng có thể đo nó bằng chu kỳ vật lý, chu kỳ của cơ thể như chu kỳ kinh nguyệt, bằng số hơi thở của chúng ta v.v… Đây là những cách khác nhau để đo lường sự thay đổi và thời gian là thước đo của sự biến đổi, đơn giản là như thế.
Thời gian có hiện hữu, nhưng có ảnh hưởng khác nhau đối với chúng ta, tùy theo cách ta nghĩ về nó. Ví dụ chúng ta nghĩ, “Chỉ còn vài ngày nữa là tới ngày thi rồi!”. Vì ta nghĩ đến thời gian như một con số nhỏ, ta lo sợ vì không có đủ thì giờ. Nhưng nếu ta nghĩ theo cách khác, “Còn đến 24 tiếng nữa”, thì ta sẽ thấy còn đủ thì giờ để chuẩn bị cho việc thi cử. Điều này là vấn đề tâm lý, tùy theo cách nhìn của chúng ta. Nếu ta xem thời gian như một cái gì rắn chắc và nặng trĩu thì ta sẽ bị nó áp đảo và sẽ không có đủ thời giờ. Nhưng nếu ta nhìn nó một cách cởi mở, xem ta có được bao nhiêu thời giờ, thì ta sẽ có thể sử dụng nó một cách tích cực, thay vì cảm thấy phiền muộn.
Cách chúng ta nhận thức thời gian ảnh hưởng tới cách chúng ta ứng xử với cuộc sống
Đức Tin và Suy Luận Trong Phật Giáo
Như thế, khi ta nói rằng điều sâu sắc nhất của các pháp là chúng hiện hữu vượt trên tâm thức và ngôn từ, ta đang nói đến sự thật là các pháp không hiện hữu theo cách ngôn ngữ và khái niệm diễn tả. Tâm ta có đủ khả năng để chấp nhận điều này. Không phải vì ta không hiểu được một vài điều gì đó mà ta cần có được đức tin để tin tưởng nó.
Phật giáo không bao giờ đòi hỏi ta tin tưởng một cách mù quáng. Trái lại, Đức Phật còn nói: “Đừng vì kính trọng ta mà các con tin những gì ta nói. Hãy thử nghiệm chúng như khi các con đi mua vàng.” Điều này đúng ở mỗi cấp độ.
Phật giáo khuyến khích sử dụng lý trí và phân tích thay vì yêu cầu niềm tin mù quáng. Thông qua sự nghiên cứu, suy luận và thực hành, chúng ta có thể tự mình khám phá và xác minh những giáo lý của Phật. Điều này làm cho Phật giáo trở thành một con đường tu học toàn diện, phù hợp với cả nhu cầu trí tuệ lẫn tâm linh của con người hiện đại.
Về Tiến Sỹ Alexander Berzin
Tiến sỹ Alexander Berzin, sinh năm 1944 ở Paterson, New Jersey, nhận bằng Cử nhân vào năm 1965 từ Sở Nghiên cứu phương Đông, Đại học Rutgers, kết hợp với Đại học Princeton và MA vào năm 1967 và bằng Tiến sỹ vào năm 1972 từ Sở Ngôn ngữ Viện Đông (Trung Quốc) và nghiên cứu tiếng Phạn và Ấn Độ, Đại học Harvard.
Từ 1969 đến 1998, ông cư trú chủ yếu ở Dharamsala, Ấn Độ, ban đầu là Học giả Fulbright, nghiên cứu và thực hành với các bậc thầy từ tất cả bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Giáo viên chính của ông là Tsenzhab Serkong Rinpoche, người là Trợ lý của Đức Đạt Lai Lạt Ma và là thông dịch viên trong chín năm, đi cùng Ngài trên một số tour hoằng pháp trên thế giới. Ông cũng đã từng là thông dịch viên tiếng Pháp thường xuyên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Kết Luận: Con Đường Tâm Linh và Khoa Học Hội Tụ
Những kết luận từ cuộc đối thoại giữa Phật giáo và khoa học cho thấy rằng hai lĩnh vực này không phải là đối lập, mà thay vào đó chúng có những điểm tương đồng sâu sắc. Cả hai đều công nhận tính chất tương đối của hiện thực, tầm quan trọng của người quan sát, và sự liên hệ duyên khởi của mọi hiện tượng.
Để áp dụng những hiểu biết này vào cuộc sống tu tập, chúng ta cần phát triển sự hiểu biết rõ ràng về tâm, nhận thức được vai trò của khái niệm trong việc hình thành kinh nghiệm của chúng ta, và kiên nhẫn trong việc khám phá những giáo lý sâu sắc của Phật pháp. Phật giáo không hề yêu cầu ta buông bỏ lý trí, mà thay vào đó khuyến khích chúng ta sử dụng nó một cách khôn ngoan để hiểu biết thực tại một cách toàn diện, vừa qua lý luận vừa qua thực tập trực tiếp.