Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Tôi Độc Kinh Di Đà: Hành Trình Tâm Linh Đến Cực Lạc

Giới Thiệu

Khi niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, tâm đã là cõi Tịnh Độ rồi. Đây là lõi giáo lý sâu sắc nhất trong Phật pháp, mở ra con đường tu tập phù hợp với mọi căn cơ con người. Kinh Di Đà, còn gọi là Kinh Quan Vô Lượng Thọ, là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông, hướng dẫn chúng ta cách tu tập để vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-Đà—nơi an lạc tối thượng, không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc vinh quang.

Trong xã hội mà đạo đức bị hoại, đạo ác, báo tà, vô cảm và cuồng tín xảy ra khắp nơi, một tình thương, một việc lành, một nghĩa cử cao đẹp đều như viên ngọc quý, có ai tu hành dưới phái môn nào cũng đều là làm cho con người trở nên tốt hơn. Quả thật, từ hơn hai nghìn năm trước cho đến nay, Phật giáo đi đến đâu thì mang lại trí tuệ và từ bi đến đấy, chưa làm tổn thương ai, dù là con sâu, cái kiến.

Bối Cảnh Lịch Sử Và Nguồn Gốc Kinh Di Đà

Kinh A-di-Đà (Amitāyurdhyāna Sūtra) được truyền lại khoảng 600 năm sau Phật Niết-bàn, được lấy cảm hứng từ câu chuyện về vua Ajātasattu (A-xà-thế). Do tham vọng vương quyền, lại còn bị Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) xúi giục nên Ajātasattu đã bắt giam vua cha BimbisÄra vào ngục. Mẹ của Ajātasattu là hoàng hậu Videhi (Vi-đề-hi) bị mật mang thức ăn vào cho chồng, nhưng vài lần bị Ajātasattu phát hiện, nên ngăn cấm. Cuối cùng, vua BimbisÄra chết đi trong ngục tối.

Câu chuyện hoàng hậu Videhi tìm đến Phật Thích Ca trong khổ đauCâu chuyện hoàng hậu Videhi tìm đến Phật Thích Ca trong khổ đau

Hoàng hậu Videhi đau khổ tột cùng, bị chán ngán trần gian, chán ngán vô ghê sợ tâm đồi đệu ác của con bé. Với tâm bi mãn, bà hướng tâm đến Phật Thích Ca, ngầm hỏi: trên thế gian này, có cảnh giới nào không có những con người hung hiểm, độc ác, mà chỉ thuần là kẻ thiện hiền, sống một đời an lạc, hạnh phúc chăng? Khi bà nở tâm bi mãn, Phật Thích Ca xuất hiện, dùng oai lực thần thông cho bà thái hậu đau khổ thấy được cảnh trời Dục giới, nơi các vị chư thiên, do phước bảu hóa sanh đang thử hưởng niệm vui ngũ dục, khôn có cảnh báo tà và ác đức như nhân gian.

Đặc biệt, Phật giới thiệu cung trời Đâu Suất, vừa đầy đủ hạnh phúc vật chất vừa đầy đủ hạnh phúc tinh thần, là nơi thường có chư đắng giác bồ-tát ngũ cư, hằng thuyết pháp cho thiên chúng. Sau đó, thái hậu Videhi hỏi Phật làm thế nào để sanh về cảnh giới hạnh phúc ấy thì được Phật căn kỳ chỉ dạy cách tu tập, là phải đầy đủ năm giới, mười lành, phải đầy đủ tín, giới, văn thí, tu nhân như thế nào.

Cảnh Giới Tịnh Độ Di-Đà: Nơi An Lạc Vinh Quang

Mô Tả Chi Tiết Cõi Cực Lạc

“Lại nữa Xá Lợi Phật! Cõi nước Cực Lạc có bảy tầng lan can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều do bốn thứ báu bao bọc chung quanh, cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc. Cõi nước Cực Lạc có ao làm bằng bảy báu, nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao dùng cát vàng rải làm đất, bốn bên thâm đường, dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp làm thành, phía trên có lầu các, cũng dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cửu, châu đỏ, mã não nghiêm sức.

Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, hoa màu xanh thì ánh sáng xanh, màu vàng thì ánh sáng vàng, màu đỏ thì ánh sáng đỏ, màu trắng thì ánh sáng trắng, tốt đẹp thơm tho trong sạch. Xá Lợi Phật! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.”

Cõi Phật đó thường trời nhạc trời, đất bằng vàng rộng, ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa trời Mạn Đà La. Chúng sinh cõi đó, thường vào buổi sáng sớm, đều lấy tui y đương đầy hoa đẹp, đem đi cúng dường vãn ước Đức Phật trong mười phương, khi đến bữa ăn bèn trở về nước của mình, ăn cơm xong đi kinh hành.

Cảnh trí tuyệt vời của cõi Tịnh Độ với những hàng cây báuCảnh trí tuyệt vời của cõi Tịnh Độ với những hàng cây báu

Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như chim hát trắng, khóm tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tân giáo, công mẹnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói pháp: năm căn, năm lực, bảy bồ đề pháp, tám thánh đạo, các pháp như vậy thấy, chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá Lợi Phật! Ông chớ cho rằng những thứ chim đó là do tội báo sinh ra. Vì sao? Vì cõi Phật đó chẳng có ba đường ác.

Phương Pháp Tu Tập Để Vãng Sanh Tịnh Độ

Thời Gian Tu Tập Cần Thiết

Theo kinh A-di-Đà, người có thể đạt được vãng sanh chỉ cần tu tập trong khoảng thời gian tương đối ngắn: “Nếu có người thiện nam thi善女 nào, nghe nói về Đức Phật A Di Đà, mà trì danh hiệu của Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tán loạn, thì người đó khi lâm chung, sẽ được Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, hiện ra ở trước người đó, lúc người đó lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.”

Thời gian tu tập không phải là yếu tố chính quyết định thành công. Thay vào đó, độ tập trung tâm niệm (“nhất tâm bất loạn”) mới là chìa khóa. Kinh Niệm Xứ cũng xác nhận: “Vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm, bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, trong nửa tháng; không cần nửa tháng, chỉ cần trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chính trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hư dở ý, thì chứng quả Bất hoàn.”

Niệm Phật Theo Truyền Thống Nguyên Thủy

Niệm Phật trong thiền định nguyên thủy dành cho hành giả có căn cơ Đức tin (saddhā), tức là có tính tín (saddhācārita) vượt trội hơn các tính khác. Có hai cách niệm sau đây:

Niệm Danh Hiệu: Hành giả lựa chọn một trong chín hộng Ân Phật để niệm: “Arahant” (ứng Cúng), “Sammā Sambuddho” (Chính Biến Tri), “Vijjā-carana Sampanno” (Minh Hạnh Tức), “Sugato” (Thiện Thế), “Lokavidu” (Thế Gian Giải), “Anuttaro Purisa Damma Sārathi” (Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Tính Phu), “Satthā Deva Manussānam” (Thiên Nhân Sư), “Buddho” (Phật), “Bhagavā” (Thế Tôn). Khi hành giả tâm liên tục niệm không giãn đoạn, khôn để cho bất kỳ một tập niệm nào xen vào cho đến khi tâm được an trụ trong “nhất niệm” hay căn hành định (upacāra).

Niệm Ân Đức: Hành giả nghĩ tưởng hoặc niệm tưởng ba ân đức của Phật: một là Vô Lậu (phiền não đã dứt), hai là Vô Sanh (luân hồi sinh tử chấm dứt), ba là Vô Nhiễm (hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm). Khi tâm hành giả liên tục trần ngập ba ân đức ấy thì mọi tập niệm lặng dứt, mọi tham ưu phiền não tự động xa rời, hành giả cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, mắt máy, có những thiền chi như phễ, lạc phát sanh, đạt được nhất niệm hoặc căn hành định giống như niệm hộng danh vậy.

Niệm Phật A-di-Đà: Đường Tu Phù Hợp Cho Tất Cả

Niệm Danh Hiệu Và Tự Tính

Nếu niệm lục tự “Di-Đà” thì tương tự như niệm danh hiệu Phật theo nguyên thủy. Hành giả khi tu tập cứ niệm mãi, niệm hoài hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, một lòng không tán loạn, thì người đó khi lâm chung, sẽ được Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng hiện ra ở trước người đó, lúc người đó lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Tại đây, cần lưu ý là ở nguyên thủy, khi đạt nhất niệm, tức căn hành định, thì tâm khôn còn tán loạn, tâm khôn còn điên đảo, tâm đã thanh tịnh (tham ưu, phiền não đã lặng dịu). Nói cách khác, “nhất cự Di-Đà vô biết niệm (nhất niệm), bất lao đạn chỉ đạo Tây phương”. Khi tâm đã thanh tịnh rồi thì “tuỳ ký tâm tịnh tức Phật độ tịnh”, ở đây và bây giờ.

Nếu tự tính của chư Phật có ba đức thì niệm Phật A-di-Đà cũng có ba đức: một là Vô Lượng Quang (Amitābhā) là biểu tượng cho Vô Lậu: trí tuệ vô lậu viên mãn (Anāsava Sabbaññutā Ã’Äṇa). Hai là Vô Lượng Thọ (Amitāyur) là biểu tượng cho Vô Sanh: chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt Vô Sanh Bất Tử (Ajātāmata). Ba là cõi Cực Lạc (Sukhāvatīvyūha), cõi Tịnh Độ là biểu tượng cho Vô Nhiễm: thoát ly phiền não, cấu uế, hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm (Amala Visuddhi).

Dù niệm danh tương, tự tính thì ý nghĩa hay chứng nghiệm đều giống nhau dù tên gọi có khác. Lại nữa, một bên là thực tính (Arahant), một bên là biểu tượng quyền biến thiền xảo (A-di-Đà) nhưng gặp gỡ nhau ở tâm thanh tịnh cả. Do vậy, không ngạc nhiên gì khi hành giả Tịnh Độ thường hay nói: “Tự tính Di-Đà, duy tâm tịnh độ!” Có nghĩa là, tự tính mình là Phật Di-Đà, tâm mình là cõi Tịnh Độ” vậy.

Thực Hành Kinh Di Đà Trong Đời Sống

Khi niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì tâm đã là cõi Tịnh Độ rồi. Do kinh Di-Đà là kinh phương tiện, kinh biểu tượng, cho nên ta phải đọc ra đằng sau ngôn ngữ và đằng sau hình ảnh biểu tượng để tìm cho ra cái thực. Vậy, đến cõi Tịnh Độ rồi, hành giả cũng còn cần phải tu tập. Ta hãy nghe: “Nay Xá-lợi-phật! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như chim hát trắng, khóm tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tân giáo, công mẹnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói pháp: năm căn, năm lực, bảy bồ đề pháp, tám thánh đạo, các pháp như vậy thấy, chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”

Vậy là đã rõ, còn phải tu 37 trợ đạo pháp, trong đó có Bát Chính Đạo, tức Đạo Đế, con đường thành tựu chính trí, giác ngộ, giải thoát, Vô Sanh, Niết-bàn!

Kết Luận: Hành Trình Tu Tập Vô Tận

Phật giáo nói chung, các tông phái Phật giáo nói riêng, ai có sứ mạng này, tuỳ căn cơ trình độ của chúng sanh, tuỳ lịch sử và thời đại, tuỳ quyền biến, tuỳ phương tiện nên chúng có thể sai khác, dị biệt chút ít, nhưng tựu trung, vẫn có cái chung nhất: “Không làm điều ác, làm các việc lành và giữ tâm trong sạch.”

Như vậy thì trong Phật giáo, ai là người tu hành chơn chính, dẫu theo phái môn nào cũng đều được ca. Người căn cơ trí tuệ thì tu Thiền tông, Thiền minh sát. Người căn cơ tinh tấn thì sống với hạnh phúc vụ chúng sanh. Người căn cơ đức tin thì tu niệm Ân đức Phật, đức Pháp, đức Tăng, niệm Phật A-di-Đà, niệm Quán Thế Âm. Trí tuệ thì “tự lực, tự giác”. Tinh tấn thì “phục vụ để hoàn toàn, hoàn toàn để phục vụ”. Đức tin, ban đầu tuy “nương tựa tha lực” cho đến lúc tự mình lên đường thì lúc ấy cũng “tự lực, tự giác” được vậy.

Cầu nguyện cho muôn triệu người tu tập pháp môn niệm Phật Di-Đà: “Nguyện sanh Tây phương Tịnh Độ trung, Cứu phẩm liên hoa vi phủ mầu (cứu phẩm là 4 đạo, 4 quả và 01 Niết-bàn), Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh (chỉ không phải Hữu Sanh), Bồ Tát bất thời vị bản lư (bất thời vì đã vào dòng giải thoát rồi).”

Tài Liệu Tham Khảo Kinh Điển

  • Kinh A-di-Đà (Amitāyurdhyāna Sūtra): Một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông, mô tả chi tiết cách tu tập để vãng sanh về cõi Cực Lạc.
  • Kinh Niệm Xứ: Dạy về Bốn Niệm Xứ, con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh.
  • Nikāya nguyên thủy: Nguồn gốc của các pháp môn niệm Phật và các giáo lý cơ bản.

Cùng nhau xiên dương đạo Phật, tu tập theo lời dạy của chư Phật Bồ-Tát để vãng sanh về cõi Cực Lạc, nơi an lạc tối thượng, chúng ta sẽ đạt được giải thoát vĩnh viễn khỏi luân hồi khổ đau.

Related posts

Hộ Niệm Lúc Lâm Chung: Vai Trò và Thực Hành (Phần 2)

Administrator

Dáng Từ Trên Đồi Trải Thủy

Administrator

Tâm Niệm Thanh Tịnh: Những Vị Tỳ-Kheo Ra Tăng Lao Động Có Phạm Tội Sát Sinh?

Administrator