Nhà Trần là một trong những triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ này, Phật giáo phát triển rực rỡ và tác động sâu sắc đến mọi phương diện xã hội. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, một dòng thiền của người Việt được thành lập – Thiền phái Trúc Lâm. Những vị tổ sáng lập thiền phái này không chỉ để lại những dấu ấn nổi bật trong lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn khai sáng con đường tu tập độc lập, phù hợp với đặc thù văn hóa dân tộc. Bài viết này trình bày những nét sơ lược về ba vị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang – ba vị pháp chủ đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Sơ Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308)
Tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang, nơi lưu giữ di tích quan trọng
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Nhân Tông (còn gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông) là con trai của Thánh Tông, người có công lao rất lớn trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288). Sau khi đẩy lùi được hai cuộc xâm lược, vua Trần Nhân Tông đã xây dựng nước Đại Việt hưng thịnh và thực hiện chính sách ngoại giao phù hợp.
Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và lên làm Thái thượng hoàng, rồi sau đó xuất gia theo Phật. Theo Thánhh Đăng lục chép: năm 1299, ngài đi vào núi Yên Tử để chuyên tâm tu hành. Tại đây, ngài lập chùa chiền, cắt tinh xá, thuyết pháp độ Tăng, học chứng tứ vô đi Đông đảo. Sau đó, ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trương để nhận chỉ Tăng về Đông đảo và lập hội giảng pháp trải qua nhiều năm. Từ đây, dòng thiền mang đặc trưng Phật giáo Việt Nam bắt đầu hình thành.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông thực hiện các hoạt động hoằng pháp, đi khắp nơi để giáo hóa dân chúng, khuyến bố các dâm tụi, dạy thực hành mười điều thiện, xây dựng một nền đạo đức cho xã hội. Ngài là Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, dung hợp tư tưởng của ba dòng phái Túy Đà Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Tháo Đường. Thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền mang đặc trưng Phật giáo Việt Nam, mang lại một luồng sinh khí mới cho thời đó.
Sơ Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) – nhân vật sáng lập thiền phái Trúc Lâm
Sơ Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông từng đến chùa Vĩnh Nghiêm ở tỉnh Bắc Giang hiện nay để trú trì, an cư kết hạ, giảng kinh tại đây. Ngài đã để lại những tác phẩm thơ văn, phú, ngữ lục, văn thư rất quý báu. Trong đó có tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” gồm có 10 hội, thể hiện tư tưởng và phương pháp hành trì của Thiền phái Trúc Lâm. Trong tác phẩm này, ngài viết:
“Ở đời vui đạo, cứ tùy duyên, đời phải ăn thôi, mắt ngủ liền. Của quý trong nhà, tìm đâu nữa, Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền.”
Ngoài ra, ngài còn đưa ra quan điểm về Tính Độ:
“Tính độ là lòng trong sách, chủ còn ngộ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mưa phải nhấc tìm về Cực lạc.”
Những tác phẩm của Phật Hoàng Trần Nhân Tông gồm: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Háu lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng-giã toái sự, Thạch thật mỹ ngữ, Cư trần lạc đạo phú và nhiều thơ văn khác, tất cả đều là những tài sản vô giá cho Phật giáo Việt Nam.
Nhị Tổ Pháp Loa (1284-1330)
Tổ tên thực là Đường Kiên Cường, sinh năm 1284, quê là làng Cữu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trước đó mẹ của ngài sinh liên tiếp năm người con gái nên vô cùng chán ngán. Do đó khi mang thai Tổ, bà mẹ cố tình uống thuốc phá thai, tuy nhiên đều vô hiệu. Đến khi sinh ra Tổ, bà mẹ mừng lắm, đặt tên là Kiên Cương. Tổ thiên tư dẫm ngộ, miệng không nói lời ác, không thích ăn thịt cá.
Năm 1304, Phật Hoàng Trần Nhân Tông (Điều ngự) đi dạo các nơi, phá trừ dâm tụi và bỏ thí pháp được đề trị bệnh khổ. Khi Điều ngự đến sông Nam Sách, Pháp Loa đến xin xuất gia, lúc này Tổ 21 tuổi. Điều ngự trông thấy bằng lòng, nói: “Kẻ này có đạo nhân, sau ắt là bậc pháp khí”, và rồi đặt tên là Thiện Lai.
Năm 1305, Tổ thoái giới Ti-kheo và Bồ-tát tại liêu Kỳ Lân, được ban pháp hiệu là Pháp Loa. Năm 1306, tại chùa Bảo Ân ở Siêu Loại, Điều ngự cố sư giảng pháp. Năm 1307, Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông tại am Thiên Bảo trao truyền y bát và tâm kế cho Nhị Tổ Pháp Loa. Năm 1308, Sơ Tổ làm lễ truyền thừa cho Nhị Tổ và Sư kế thừa trụ trì chùa Siêu Loại. Sơ Tổ còn trao truyền Đại tạng viết bằng máu và ngoại điển cho Nhị Tổ.
Nhị Tổ Pháp Loa (1284-1330) – vị pháp chủ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm
Năm 1310, vua Trần Anh Tông ban chiếu, cứ 3 năm độ Tăng một lần, ban ruộng đất cho nông phu để cung cấp lương thực cho các chùa. Nhị Tổ ngày đêm hành trì tu tập, lễ bái, tụng kinh, phát nguyện ngày đêm sâu thẳm (lục thời nghi) và giảng kinh. Năm 1311, Nhị Tổ phương chiếu khác bản Đại tạng kinh. Cũng năm này, Tổ thâu nhân ngại Huyền Quang làm Đệ tứ tứ.
Năm 1312, vua Trần Anh Tông ban chiếu mời Tổ và vào chùa Tự Phúc giảng Đại tụng ngữ lục. Năm 1313, Nhị Tổ phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang ngày nay, quy định các chức vụ của Tăng sĩ, và từ đó mới có số bộ dành cho chỉ Tăng Ni. Nhị Tổ độ được rất nhiều Tăng, về sau cứ ba năm một lần độ Tăng như thế. Năm 1314, tại chùa Siêu Loại, ngài cho đúc ba tượng Phật cao 17m, xây điện Phật, gác kinh và nhà Tăng. Năm 1316, ngài truyền Bồ-tát giới cho Trần Anh Tông, lúc đó Anh Tông đang làm Thái thượng hoàng.
Năm 1317, Nhị Tổ đem y của Điều ngự và viết bài tâm kế trao cho ngài Huyền Quang, Đệ Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1327, Nhị Tổ được tượng Di Lặc và Thánh tạng tại viện Quỳnh Lâm. Năm 1329, Nhị Tổ kiến tạo thắng cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn.
Nhị Tổ Pháp Loa – vị tổ xuất sĩ vào khoảng năm 1305 với pháp hiệu Pháp Loa
Ngày 3 tháng 3 năm 1330, Nhị Tổ viên tịch. Trước khi viên tịch, Nhị Tổ để lại bài kệ thị tịch như sau:
“Muôn duyên cắt dứt, một thân nhà nơi,
Hơn bốn mười năm giác mộng trăng nơi,
Nhân báo mọi người thôi chủ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thành thang.”
Nhị Tổ đã xây dựng nhiều chùa tháp, kiến tạo hàng ngàn tượng Phật lớn nhỏ, cho in Đại tạng kinh, độ hơn 15.000 vị Tăng, trong đó có nhiều vị Tăng tái đắc pháp. Những tác phẩm của Nhị Tổ Pháp Loa gồm: Đoạn sách lục, Tham thiền chỉ yếu, Kim cương đạo trường Đà-la-ni kinh, Tán Pháp hoa kinh khoa số, Bát-nhã Tâm kinh khoa, và bài kệ thị tịch.
Tam Tổ Huyền Quang (1254-1334)
Ngài Huyền Quang tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254), tại làng Vạn Tả, hạ lưu sông Bắc Giang (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Thân phụ là Tùy Tổ, thuộc dòng họ làm quan từ thời Lý. Thân mẫu là Lê Thị. Khi ngài sinh ra có nhiều điều kỳ lạ xuất hiện. Tổ gia thực lục ghi: “Khi sinh có tia sáng mở áo, mùi hương thơm phức. Người ta gọi đó là đứa hài động có mùi hương thanh tịnh. Lê Thị mang thai Tổ đến 12 tháng mà bụng không chuyển động. Bà nghi mắc bệnh nên uống nhiều thuốc phá thai mà thai không hư. Khi Tổ sinh ra, lại là một đứa bé trai cứng cáp. Đến tuổi đồng âu, thể mạo Tổ dễ thương, có chí của bậc trác viết vô nhân, cha mẹ đều yêu thương, dạy cho học nghề. Tổ nghe một hiệu mười, có tài như Nhan Hồi Ý Thái nên được gọi là Tái Đạo.”
Năm 1274, Đạo Tái đi dự khoa thi Hương, năm sau đi dự khoa thi Hội, được bổ vào chức quan Hàn lâm, đảm nhận văn thư, tiếp sứ giả phương Bắc. Thưởng thiếu thời, ngài từ chối cuộc hôn nhân với công chúa Liễu Nữ. Nhân một hôm cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Đạo Tái nói rằng: “Làm quan lên Bông Đạo, đắc đạo đến Phổ Độ, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác là vàng mưa thu, mây trắng ngày hạ, hà nên lưu luyến mãi mãi.” Nhân đó, dâng sớ xin từ chức để xuất gia tu hành và được vua chấp thuận.
Năm 1305, ngài xuất gia với pháp hiệu là Huyền Quang. Về sau ngài trụ trì chùa Văn Yên ở núi Yên Tử. Tổ Huyền Quang tinh thông Phật pháp, học rộng hiểu nhiều, chỉ Tăng theo học rất đông. Điều ngự cùng với Pháp Loa và Huyền Quang thường đi khắp các nơi để khuyến khích dân chúng tu tập, bỏ ác làm lành. Huyền Quang theo lời chỉ dạy của Điều ngự soạn Chỉ phẩm kinh, Công văn tập, v.v… Điều ngự khen ngợi: “Phẩm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa.”
Tam Tổ Huyền Quang (1254-1334) – vị tổ cuối cùng của Tam Tổ Trúc Lâm
Tam Tổ còn đắng đăng thuyết pháp, đặc biệt còn được Điều ngự ban tòa trầm hương để giảng kinh. Năm 1308, Điều ngự mất, Huyền Quang theo hầu Thiền sư Pháp Loa. Ngày rằm tháng Giêng năm Quý Sửu (1313), Tổ về kinh thành thăm vua Trần Anh Tông, rồi tới chùa Bảo Ân giảng kinh Lăng nghiêm. Sau đó, Tổ dâng chiếu xin phép về làng quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đó, ngài lập một ngôi chùa và đặt tên là chùa Đại Bi.
Khi Tổ trở về chùa Văn Yên, lúc đó đã 60 tuổi. Vì muốn thúc lòng Tổ và công phu tu tập của ngài nên nhà vua đã cho Thị Bích bảy cơ mẫu, quyền rỷ bằng sắc đẹp, rồi lấy ngân lương về làm bằng chứng. Thị Bích nói dối với Tổ để được ngân lương, rồi về trình với vua. Khi nghe tin, vua rất buồn lòng, liền mở trai Đàn chân tế mời Sư vào Đàn. Khi thấy sự linh nghiêm của Đàn trường do Tổ cúng: mây đen xuất hiện, bụi tung mù mặt, các thứ tạp vật cuốn bay hết, chỉ còn hương đắng lúc cúng, vua liền lấy xuống tạ lỗi.
Còn Thị Bích sau đó bị phạt quét dẫn và trông nom chùa trong cung Cảnh Linh ở nơi Điện. Sau đó Tổ trụ trì ở Thanh Mai Sơn sâu năm, tiếp đó sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng, lập ra Đại Cứu phẩm liên hoa. Đến ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Tổ Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn, thọ 80 tuổi.
Những tác phẩm của Tam Tổ Huyền Quang gồm: Ngọc tiên tập, Chỉ phẩm kinh, Công văn tập, Phổ tụ ngữ lục, và nhiều thơ văn khác. Tất cả những tác phẩm này đều là những di sản vô giá của Thiền phái Trúc Lâm, thể hiện sâu sắc lý tưởng và phương pháp tu tập theo truyền thống Phật giáo Việt Nam.
Kết Luận
Ba vị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm – Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang – là những bậc chí sĩ vĩ đại, những vị pháp chủ xuất sắc đã khởi sáng một dòng Phật giáo độc lập, phù hợp với tâm linh và nhu cầu của người Việt. Họ không chỉ tu tập theo chánh pháp mà còn hoằng pháp rộng rãi, giáo hóa dân chúng, xây dựng nền tảng đạo đức cho xã hội Đại Việt.
Tư tưởng hành trì của Thiền phái Trúc Lâm nhấn mạnh sự kết hợp giữa tu tập tâm tính và thực hiện các việc thiện trong cuộc sống hàng ngày. Điều này phản ánh một cách tiếp cận Phật pháp thực tiễn, gần gũi với cuộc sống của bình dân Việt Nam. Những tác phẩm văn học, kinh điển mà ba vị Tổ để lại không chỉ là những tài sản vô giá của Phật giáo Việt Nam mà còn là những hướng dẫn tu tập quý báu cho những thế hệ Phật tử sau này.
Cho đến ngày nay, di sản của Thiền phái Trúc Lâm vẫn tiếp tục tỏa sáng, hướng dẫn hàng triệu Phật tử và những ai tìm kiếm con đường giác ngộ theo chánh pháp. Việc học tập và thực hành những giáo lý mà ba vị Tổ để lại là một cách để chúng ta tiếp nối truyền thống Phật giáo Việt Nam, từng bước bước trên con đường nhân quả tự thắng tự độ vừa độ tha.