Hoa mai là đề tài bất tử trong thơ ca; là thơi hương đất đao của bao tâm hồn đa cảm; là lòng ái mộ, si mê của những người yêu mai. Nhưng với Trần Nhân Tông, qua thơ ca, sự phản ánh lại mang một màu sắc khác. Đó là những xúc cảm mãnh liệt, sâu sắc về tự nhiên và con đường tu tập; là cách nhìn liên tưởng, so sánh độc đáo, đặc sắc; và là những tái hiện bất ngờ mà ta chưa từng gặp trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
Sắc thân từ đại vốn dễ thuộc về tự nhiên. Phải chăng đây là căn nguyên mà các bậc Thiền sư dù tu tập đến gần cảnh giới chứng ngộ cũng trở nên gần gũi hơn với thiên nhiên? Có lẽ vậy mà ta đã gặp một Thiền sư Vạn Hạnh yêu thích chơi xanh cổ cây, một Huyền Quang say mê hoa cúc và một Trần Nhân Tông ái mộ hoa mai. Ba vị sư đã chứng tỏ rằng tâm Phật không phải ở nơi nào xa xôi, mà ở trong sự gần gũi với tự nhiên và cuộc sống đơn giản.
Vẻ Đẹp Độc Đáo Của Hoa Mai Trong Tự Nhiên
Từ ngàn xưa hoa mai đã trở thành đề tài ngâm vị ưa thích của tao nhân máy khách. Hoa mai không chỉ đẹp bởi dáng vẻ, sắc hương mà còn bởi sức sống mãnh liệt, biết chịu đựng để có thể vươn mình khai hương khoe sắc. Yêu mai, thích mai không chỉ thuộc đặc quyền của riêng ai. Nhưng qua cái nhìn của Trần Nhân Tông, hoa mai hiển ra với một diện mạo riêng biệt, đặc sắc. Ở đó hoa mai vừa mang về đẹp vốn có vừa trở nên lung linh, huyền ảo; độc đáo, kì lạ.
Trần Nhân Tông viết trong Táo mai kì nhất (早梅其一):
Ngũ xuất viên ba kim niên tu
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Dịch nghĩa:
Năm cánh xoe tròn nhỏ điểm vàng
[Như] bông san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Hoa mai tuyết trắng khoe sắc giữa mùa đông lạnh giá
Nếu như câu một chỉ thuần tuý miêu tả dáng điệu của loài hoàng mai năm cánh với những nhị hoa điểm vàng thì ở câu hai là một đặc sắc liên tưởng. Hoa mai đẹp tựa bông san hô trong nước; hoa mai lập lánh như vảy cá biển nhô lên mặt nước. Cái hay chính ở chỗ này. Vì sao lại là “bông san hô chìm”? Và vì sao… “vảy cá biển nổi”? Cách chọn lọc hình ảnh và lựa chọn từ ngữ đã khiến câu thơ tạo ra sự đối ứng trong cấu trúc cú pháp, đồng thời là sự đối lập, trái nghĩa bởi 2 từ: chìm và nổi.
San hô vốn đã đẹp bởi nhiều màu sắc sống động và nó cũng đẹp hơn khi chìm trong sự dao động của nước, khiến các màu sắc như hoa quyển; lúc mở lúc tắt, lúc hơ lúc thực. Và vảy cá chỉ đẹp, chỉ óng ánh khi nó phải nhô lên khỏi mặt nước mới có thể đón nhận được những tia nắng, tạo ra phản xạ ánh sáng là làm cho nó trở nên lập lánh, nhiều màu. Rõ ràng ánh nhìn này mới máu, lạ lẫm, chưa từng bắt gặp trong bất kỳ thi phẩm nào. Những liên tưởng như vậy khiến cho hoa mai thật lung linh pha lẫn về bí ẩn, mầu nhiễm.
Hoa Mai Qua Cách Ngâm Vị Của Các Bậc Thiền Sư
Thánh Thiền sư Trần Quang Khải cũng có cách ngâm hoa mai độc đáo riêng. Trong bài Lưu Gia Độ (劉家渡), ông viết:
Thi khách trùng lai đầu phát bạch
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
Dịch nghĩa:
Khách thơ trở lại đầu đã bạc
Hoa mai như tuyết chiếu lòng sông.
Như vậy, một người thì nhìn mai như bông san hô trong nước, một người thì thấy mai như tuyết trắng qua bóng nước lòng sông. Cách ngâm mai không trực diện, gián tiếp của Trần Quang Khải đã khiến hoa thêm lung linh và tôn lên về đẹp thanh tao, thuần khiết của loài mai trắng; đồng thời cho thấy ở đây một không gian tĩnh lặng, một mặt hồ yên ả, một lòng nước trong ngắn.
Sức Sống Bất Khuất Của Hoa Mai
Hoa mai từ thân đã đẹp. Đó là cái đẹp khách quan ai cũng thấy và nhận thức. Nhưng nếu chỉ thấy cái đẹp lúc mai khai hoa ở nhụy thì mới chỉ dừng lại ở cái đẹp hình thức mà vẫn chưa thực sự thấu cảm hết những ẩn tàng bên trong về đẹp ấy. Người yêu mai, hiểu mai đều biết rằng để có được một bông hoa khoe sắc toả hương thì mai phải chịu đựng, đương đầu trong suốt mùa đông rét mưa với biết bao mưa dập gió vũi, tuyết rơi băng đóng.
Trần Nhân Tông, vốn là một người say mê và gần gũi với hoa mai, rất rõ phẩm cách phi thường ấy, ông đã khắc họa lại:
Cá tam đông bạch chi tiên diển
Tá nhất biến hương xuân thượng đầu.
Dịch nghĩa:
Ba tháng đông dài cánh trơ trắng
Một cánh hoa thơm chìm đầu xuân.
Hoa mai nở rực rỡ sau những ngày lạnh giá của mùa đông
Chỉ cần hình ảnh nhỏ cây trắng bởi ba tháng mùa đông (bạch/chi tiên diển) đủ nói lên sức sống mãnh mạnh, bền bỉ; sự bất phục, hiên ngang của loài mai cao quý. Và có lẽ chính sự khắc nghiệt của hoàn cảnh đã khiến cho hoa mai trở nên đẹp đẽ, lạ thường. Hình ảnh một cánh hoa thơm (nhất biến hương) mang lại hương sắc đầu xuân như một kết quả đầy ý nghĩa khi phải trải qua những gian truân, thử thách. Khi ấy mọi khó khăn chỉ còn là làm nên cho những thành tựu ngọt ngào thêm nổi bật mà thôi!
Hoa Mai Trong Giấc Mơ Tâm Linh
Về đẹp của hoa mai luôn trong tiềm thức của người yêu mai. Nhưng hoa mai sẽ còn đẹp hơn khi được người thưởng thức quan sát tỉ mỉ, nắm bắt được những khoảnh khắc sống động lúc đang khoe sắc và hòa mình vào trong thế giới tự nhiên. Là người yêu mai sâu sắc, Trần Nhân Tông đã kịp chụp lại, tái hiện được giây phút diệu kỳ này, ông viết:
Cam lộ lưu phương si điệp tĩnh
Dạ quang như thủy khát cảm sâu.
Dịch nghĩa:
Sương đêm ngọt hương lay bướm tĩnh
Ánh đêm như nước khiến chim khát buồn.
Thật là trác viết! Hai câu thơ đã bày ra tất cả những gì đẹp nhất, say đắm nhất của hoa mai trong những thời khắc đặc biệt của thiên nhiên. Bằng một sự quan sát tinh tế ông đã thấy những hạt sương ngọt đôi lại trên cánh mai, nó hòa quyện với mùi ngọt của bông hoa, rơi chuyển động long lanh thơm ngát (cam lộ lưu phương) khiến cho bướm phải say lòng. Hình ảnh “cam lộ” trong câu thơ này lại gợi cho ta nhớ về một giọt sương khác – sương treo đầu ngón cỏ – trong Thì Đề Tử (示弟子) của Thiền sư Vạn Hạnh:
Nhằm vân thị sinh suy vô bộ ứy
Thị sinh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Mặc cuộc thị sinh suy không sợ hãi
Thị sinh suy như cỏ giọt sương treo.
Đặc biệt hơn, Trần Nhân Tông còn nhìn thấy sự phát quang của hoa mai trong bóng đêm. Ở đó mai lập lánh, sóng sánh như nước khiến những chú chim đang khát lâm tưởng, và rồi, thật vọng buồn. Xưa nay khi nhắc đến cái đẹp, người ta thường nói “chim sa cá lặn”, “hoa nhường nguyệt thẹn” để chỉ về đẹp tuyệt sắc của một giai nhân khiến vạn vật trở nên tự ti, e thẹn; thì trong tình huống này về đẹp của hoa mai đã khiến cho bướm phải si tình mà chim thì sâu muốn.
Mai Trong Mộng Tưởng Của Tâm Thiền
Những quan sát, liên tưởng và so sánh độc đáo như vậy đủ cho thấy một tấm lòng say sưa, ngưỡng mộ hoa mai biết nhường nào! Trong Táo mai kì nhị (早梅其二) ông viết:
Hương Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiêm hân chỉ ma hưu!
Dịch nghĩa:
Hương Nga nếu biết miễn hoa đẹp
Cây quế cung thiêm lạnh bỏ chơi.
Rõ ràng, đến đây có thể khẳng định trong mắt ông hoa mai có vẻ đẹp li trần thoát tục, có thể khiến trần gian hóa đền đề cho miễn nhân chẳng còn tiếc chọn bỏng lai. Hai câu thơ gợi lên một hình ảnh tương phản, đối lập với tâm trạng chán chướng nhân thế của các thi nhân đương thời – những năm đầu thế kỷ XX. Họ muốn thoát ra khỏi cái không gian chật chội, giai toả sự cô đơn trổng trải để tìm bầu bạn nơi cung quế chỉ Hương cùng với gió mây.
Vốn là một người say mê và gần gũi với hoa mai, Trần Nhân Tông rất rõ phẩm cách phi thường này. Ông đã khắc họa lại một cảnh trong giấc mơ, một khoảnh khắc tâm linh sâu sắc:
Thuỷ vũ ca trầm sơn điểm nguyệt
Hoạ long xuy thập ngọc quan vân
Nhất chi mê nhập cổ nhân mộng
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Dịch nghĩa:
Khúc Thuỷ Vũ lắng chìm trắng xóm núi
Điều Hoạ Long thấm ướt Ngọc Quan mây
Một nhành hoa lạc giấc mộng cổ nhân
Chết tỉnh, nào đâu thể tặng bạn được!
Hình ảnh một nhành mai luôn gợi ra một thời khắc trong một không gian đẹp đẽ. Ở đó hoa mai mang lại niềm hứng lạc trong tâm người thường lâm. Đến đây ta lại thấy có sự đồng điều giữa Thiền sư Trần Nhân Tông với Thiền sư Mãn Giác. Hai câu kết trong Cáo tất thì chứng (告竭示眾):
Mặc vị xuân tân hoa rạc tàn
Định tiền tắc dạ nhất chi mai.
Dịch nghĩa:
Đừng báo xuân tàn hoa rụng hết
Định tiền tắc dạ một nhành mai.
Nhưng sự khác nhau chính là thời điểm thấy hoa, thưởng hoa. Người thì trong giấc ngủ, giấc mộng; kẻ thì sau một đêm dài tỉnh giấc. Từ đây ta thấy cũng là một nhành mai nhưng cái hơ – cái thực hiện lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Và dù là hơ hay thực, dù là mộng hay tỉnh thì cũng chỉ khẳng định một điều: hoa mai luôn trong tâm thức để rồi ngay trong giấc mộng hoa mai cũng hiện ra trước mặt.
Hoa Mai Và Con Đường Tu Tập
Trần Nhân Tông vì thích hoa mai nên khi lên núi Yên Tú tu tập, ông đã mang giống mai vàng phía Nam để gieo trồng. Và đến hôm nay những cây mai ấy vẫn còn trong những khoảng rừng Yên Tú, chúng được gọi là “đại lão mai vàng”. Vậy nên, có thể nói hoa mai như một tri ân, một người bạn đồng hành đi với Trần Nhân Tông trong suốt những năm tháng tu hành nơi chốn rừng sâu nước thẳm.
Tình yêu, lòng ái mộ của ông dành cho hoa mai là những xúc cảm tự nhiên. Nhưng nó không phải là những cảm xúc nhất thời mà sâu xa hơn, đó là những rung động mãnh liệt, sự gần gũi thân quen, sự thấu hiểu sâu sắc. Hơn thế, tình yêu ấy dường như đã in sâu vào tiềm thức để rồi ngay trong giấc mộng hoa mai cũng hiện ra trước mặt. Những hình ảnh hoa mai trong thi ca của Trần Nhân Tông không chỉ là những lời ca tụng vẻ đẹp tự nhiên, mà còn là những biểu hiện của tâm Phật – tâm nhìn thấy vẻ đẹp thanh tao, bất biến trong sự thay đổi của tự nhiên.
Kết Luận
Hoa mai là đề tài bất tử trong thơ ca; là thơi hương đất đao của bao tâm hồn đa cảm; là lòng ái mộ, si mê của những người yêu mai. Nhưng với Trần Nhân Tông, qua thơ ca, sự phản ánh lại mang một màu sắc khác. Đó là những xúc cảm mãnh liệt, sâu sắc; những cái nhìn liên tưởng so sánh độc đáo, đặc sắc; và những tái hiện bất ngờ mà ta chưa từng gặp.
Hoa mai trong thơ của Trần Nhân Tông không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên mà còn là phản ánh của con đường tu tập, của tâm Phật được thể hiện qua tình yêu với thiên nhiên. Từ những quan sát tinh tế về sắc thơm hoa mai, từ những liên tưởng sâu sắc với các hình ảnh tự nhiên, Trần Nhân Tông đã cho ta thấy rằng tu tập Phật pháp không nhất thiết phải tách rời với thiên nhiên, mà ngược lại, sự gần gũi, hiểu biết về tự nhiên chính là một con đường để thấu hiểu về cuộc đời, về bản chất thực của vạn vật, và từ đó đi tới giác ngộ.
Tham khảo kinh điển:
- Táo Mai Kì Nhất và Kì Nhị của Trần Nhân Tông
- Lưu Gia Độ của Trần Quang Khải
- Thị Đề Tử của Thiền sư Vạn Hạnh
- Cáo Tất Thị Chứng của Thiền sư Mãn Giác