Theo pháp môn Tịnh Độ, danh niệm Phật là bước đầu của hành giả thực tập, và quán tưởng niệm Phật mới là phương pháp chính yếu giúp chúng ta vãng sanh Cực Lạc. Luyện tập niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chúng ta dần dần đi vào ứng niệm, hình dung được Phật A Di Đà cùng Thánh chúng và thế giới Cực Lạc. Dùng pháp quán tưởng này, chúng ta nương theo kinh Quán Vô lượng thọ để quán tưởng về Cực Lạc, về người tu ở đó, quán tưởng về Phật A Di Đà đang thuyết pháp. Đây chính là bước tiến phát huy được tâm linh của chúng ta, vì đã rời ngũ ngón vận tư.
Hành giả tu pháp môn Tịnh Độ có cái nhìn khác hơn người thường. Người thường thấy cảnh vật hiện hữu chung quanh, nhưng người quán tưởng niệm Phật, nhiếp tâm niệm Phật thì đi lặn vào nội tâm, nên thế giới bên ngoài dần dần được đóng kín lại. Chính vì thế mà pháp môn Tịnh Độ được xem là thù thắng, vượt ra ngoài Trì danh niệm Phật.
Quán Tưởng Niệm Phật: Từ Tầng Lớp Ngoài Đến Lõi Sâu
Thật vậy, từ từ đóng kín lại thế giới bên ngoài, thể nghiệm pháp niệm vô niệm là không sử dụng ngũ ngón, sắc tưởng, không niệm theo thanh trần bên ngoài; nhưng niệm này luôn có trong tâm chúng ta. Thực tu như vậy, thì thế giới Ta-bà phiền nào nhiễm ô từ từ rơi rụng, không còn tác động tâm chúng ta. Các Phật tử nên suy nghĩ ý này.
Khi niệm Phật A Di Đà đến mức không còn nghe âm thanh chung quanh, không còn thấy cảnh vật chung quanh, thì đã đồng với pháp giải thoát mà Đức Phật dạy cho hàng Thanh văn tu hành để vào Niết-bàn là Không, vô tác, vô nguyện. Chúng ta niệm Phật khởi đầu còn nghe trần duyên, kế tiếp nghe tiếng niệm Phật của mình, và sau cùng tiến đến trạng thái tâm trỏng không, an lạc, giải thoát; nghĩa là chúng ta niệm Phật A Di Đà cũng đã đi vào cửa giải thoát của Phật dạy cho hàng Nhị thừa.
Hành giả quán tưởng Phật A Di Đà trong cửa chùa cổ, tâm không giao động
Nếu bên trong chúng ta có hạt giống Tịnh Độ, hay tính nhân, thì chính hạt nhân Tịnh Độ ấy là tác động để chúng ta phát sinh niệm tin có Phật A Di Đà, có thế giới Cực Lạc của Ngài và có người vãng sanh. Cho nên khi trần duyên chấm dứt, thì hạt nhân Tịnh Độ sẽ nảy mầm, trở thành cây sen ở ao tháp báu của thế giới Cực Lạc. Như vậy, người niệm Phật tuy thân ở Ta-bà, nhưng tâm đã đặt vào ao tháp báu của Cực Lạc. Ngài Huyền Giác diễn tả ý này là “Thề tâm An dương hương”, tức thân còn ở Ta-bà, nhưng tâm chúng ta đã đem đặt ở Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Người đem tâm mình đặt ở Cực Lạc, chắc chắn phải khác với người để tâm ở Ta-bà. Nếu quý vị tu để tâm ở Ta-bà, thì những điều chương tai gai mắt luôn xuất hiện trước mặt và tác động mình. Tu như vậy, đối với huynh đệ đồng sự, chúng ta không bằng lòng, từ cách ăn uống, cách đi động, cách nói năng, hay cách lấy cắp của bạn cũng tu đều là tác động bị cách mình bực bội.
Phương Pháp Chấm Dứt Tâm Ở Ta-bà
Để tâm Ta-bà mà tu Tịnh Độ, chắc chắn không vãng sanh được. Hành giả tu Tịnh Độ, dứt khoát phải chấm dứt tâm ở Ta-bà và đặt tâm vào Cực Lạc. Tôi nghĩ Thần Loan đại sư đã thành tựu pháp niệm Phật và chúng ta cũng có thể tu được pháp này.
Nghiên cứu pháp môn Tịnh Độ và trên bước đường thực tập niệm Phật, khi tôi hiện diện trong đại chúng, hoặc ở trong phòng, nhưng nhiếp tâm niệm Phật A Di Đà, tất cả cảnh vật trong phòng đều biến mất, cũng như âm thanh của đại chúng, tôi không còn nghe biết. Phải đem tâm mình đặt vào Cực Lạc và đặt tâm vào Cực Lạc rồi, Ta-bà liền biến mất và Cực Lạc hiện ra. Pháp môn này giúp chúng ta tu hành đột giai đoạn, đi tắt, nên thù thắng là vậy; vì từ Ta-bà đến được thế giới Cực Lạc mà không cần trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp để tu tất cả các pháp do Phật Thích Ca chỉ dạy.
Thật vậy, Đức Phật dạy rằng để đạt đến Niết-bàn, phải mất ba a-tăng-kỳ kiếp thành tựu tất cả các pháp và còn phải trải qua thêm một trăm kiếp nữa hành Bồ-tát đạo, cứu độ tất cả chúng sanh, mới thành tựu Phật quả. Nếu chúng ta theo con đường này, thì dù có đi trăm kiếp ngàn đời, không biết bao giờ mới đến được.
Chính vì sự khó khăn vô cùng của đường hiểm sinh tử mà chúng sanh khó vượt qua nội ngoài, Đức Phật mới đưa ra pháp tu Tịnh Độ nhằm giúp cho tất cả mọi người được giải thoát một cách nhẹ nhàng, bằng cách chỉ cần đem niệm tin sâu chắc của chúng ta đặt vào thế giới Cực Lạc là cắt đột niệm tâm ở Ta-bà ngay.
Xây Dựng Nền Tảng Niệm Tin Vững Chắc
Nếu niệm tin yếu kém thì chẳng thể nào đến Cực Lạc được; có thể vì niệm tin yếu ớt như chiếc hỏa tiễn không đủ sức mạnh, phóng chưa qua khói tầng không gian thì bị rơi xuống lại. Thật vậy, khi chúng ta tỉnh tỏa, hướng đến mục tiêu Cực Lạc, dùng hết sức chính niệm để phóng tâm qua Tịnh Độ, vứt nhớ đến việc chưa làm, nhớ điều này điều nọ, là trở lại thực tế liền, giống như hỏa tiễn bị xì, rơi xuống. Bất giác này xảy ra trong đời tôi cả trăm lần. Nhưng chúng ta không nản lòng, mỗi lần rơi xuống, lại nỗ lực tìm nhiên liệu, tạo hỏa tiễn mới, tức cần nắc, suy nghĩ xem tại sao tâm rơi trở lại Ta-bà, tại sao không về Cực Lạc được.
Vì vậy, tìm đọc thêm kinh điển, hay chữ sư của các bậc cao tăng; vì các ngài cũng từng trải qua những kinh nghiệm tu tập để kiện toàn “phi thuyền Tâm” của chúng ta vượt qua được muôn vàn ước thế giới mà đến Cực Lạc. Kinh Hoa nghiêm dạy rằng niệm tin là mẹ sanh ra các Đức Phật. Phải cơng cố niệm tin cho thực vững chắc; vì nếu nhiên liệu không đủ, “phi thuyền Tâm” bay lên nửa chừng sẽ bị rơi xuống, nên chúng ta phải trang bị thực đầy đủ.
Xem tivi, chúng ta thấy phi thuyền đặt trên bề phóng phải có những hỏa tiễn phụ bám chung quanh. Năm bộ kinh là Di Đà, Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ, Hoa nghiêm và Lăng nghiêm vì như năm cái hỏa tiễn phụ được đặt chung vào một bề phóng là làm phương tiện tạo thành sức đẩy, để đưa “phi thuyền Tâm” chúng ta qua khói sức hút của Ta-bà. Lịch sử cho thấy các vị Tổ sư tu hành đều biết kết hợp nhuần nhuyễn các bộ kinh này để thăng hoa tâm linh.
Trên đường đi đến Cực Lạc, cần Tịnh Độ Ngũ kinh, nhưng qua khói không gian rồi, phải bấm nút bỏ hỏa tiễn phụ lại, tức bỏ kinh lại để tâm chúng ta nhẹ nhàng, không còn vương bận bất cứ thứ gì, mới đến Cực Lạc được. Ý này thường được diễn tả rằng qua sông rồi bỏ thuyền lại.
Ta-bà chấm dứt, chỉ có tâm thanh tịnh, tức tịnh nhân, mới vào ao tháp báu ở Cực Lạc được. Còn có bất cứ khái niệm nào đều rơi trở lại trần gian này. Vì vậy, tâm ở Cực Lạc rồi, chúng ta nghe được pháp âm của Phật A Di Đà; nghe kinh bằng tâm, không bằng ngôn ngữ, tâm ta thông qua tâm Phật. Tu hành đạt đến số độc đắc này, lúc nào cũng nghe Phật thuyết pháp.
Quả Vị Vãng Sanh Và Sứ Mệnh Giải Thoát
Người về Cực Lạc nghe Phật A Di Đà thuyết pháp bằng tâm và nghe rồi, liền ngộ Vô sinh nhân. Chỉ một lần nghe Phật thuyết pháp mà ngộ Vô sinh, trong khi bình thường A-la-hán tu phải mất ba a-tăng-kỳ kiếp mới chứng được Vô sinh. Phải đến Cực Lạc và nghe được Phật A Di Đà thuyết pháp bằng tâm mới chứng quả Vô sinh và từ Vô sinh lại hiển sanh, thì không rời An dương quốc mà trở lại Ta-bà. Nói cách khác, tâm chúng ta vẫn an trú Cực Lạc, nhưng thân ở Ta-bà; bấy giờ thân ở Ta-bà trở thành vệ tinh của Cực Lạc, nên bắt được tín hiệu của Cực Lạc, nghe được pháp âm của Phật A Di Đà.
Người có niệm tin vì như có máy vi tính nối mạng với toàn cầu, chỉ cần mở mạng là biết được thông tin trên khắp thế giới. Cũng vậy, người đắc đạo tuy ở Ta-bà, nhưng tâm an trú Tịnh Độ, nên nghe được Phật A Di Đà nói pháp và ai có nhân duyên tiếp xúc với họ, liền được an lạc giải thoát theo. Đó là sự kỳ diệu của hành giả thâm nhập Tịnh Độ.
Trên bước đường tu, đời hỏi chúng ta nhiếp tâm thì đến Cực Lạc và tâm thanh tịnh được, trong lúc hình đạo ở Ta-bà, nhưng thân tâm và hoàn cảnh sống của chúng ta có sức thuyết phục, nhiếp hóa được mọi người. Đạt được thành quả như vậy, Phật mới dạy rằng mỗi người đi một phương để giáo hóa chúng sanh. Nhưng có người hiểu lầm ý này, với đi giáo hóa, mà chưa giải thoát, thì không ai nghe theo, chỉ có phiền nào phát sinh. Quan trọng là phải ngộ Vô sinh nhân, cuộc sống chúng ta thể hiện đạo giải thoát, người thấy thành quả tốt là nhờ ấy mới giải thoát theo.
Mong tất cả hành giả tu pháp môn Tịnh Độ đặt tâm ở Cực Lạc, học cách suy nghĩ, cách sống của Phật, Bồ-tát, La-hán, Thánh chứng Liên Trì hải hội, tâm hành giả được sáng tỏ theo sự giáo dưỡng của các Ngài. Sau đó, tâm hành giả quay trở về Ta-bà, là nơi nương tựa an ổn, giải thoát cho mọi người thắng hoa đạo Phật và tri thức.