Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Những Yếu Điểm Của Tư Tưởng Duy Thức (Phần 5 – Hoàn Thành)

Tư tưởng duy thức tức là cảnh giới của duy thức trong ba cõi và dương của duy thức tức là sự sinh hoạt của duy thức trong ba cõi. Hành giả phải thông suốt tính chất, giá trị và ý nghĩa cảnh giới của duy thức biển hiện trong ba cõi và sự sinh hoạt của tám thức trong mỗi chúng sinh hữu tình trong ba cõi.

V. Phương Pháp Tu Tập Duy Thức Quán

Phương pháp tu tập của duy thức quán là phương pháp chuyển hóa vọng tâm thành chân tâm, chuyển hóa tâm thức thành bốn trí, chuyển hóa pháp tưởng thành pháp tính, chuyển hóa phiền não thành Bồ Đề, chuyển hóa cảnh giới ô trước sinh tử thành cảnh giới niệt bàn tịnh độ. Phương pháp tu tập của duy thức quán gồm có: Năm cấp bậc tu tập quán chiếu của duy thức, gọi là Ngũ vị duy thức quán.

Năm cấp bậc tu tập quán chiếu của duy thức là thuộc về duy thức hạ hành (Thật hành pháp quán duy thức), nhằm mục đích để được chứng quả duy thức tính. Năm cấp bậc tu tập quán chiếu của duy thức gồm có: cấp bậc Tư lương, cấp bậc Gia hành, cấp bậc Thông đạt, cấp bậc Tu tập và cấp bậc Cứu cánh.

1) Cấp Bậc Tư Lương (Tư lương vị)

Tư lương nghĩa là những hình trang cần thiết trên con đường tu tập duy thức quán. Những hình trang cần thiết của cấp bậc Tư lương trợ giúp cho hành giả tu tập để chuyển được tự chứng phần ý thức thứ sâu thành trí tuệ hữu phân biệt. Muốn chuyển tự chứng phần Ý Thức thứ sâu thành trí tuệ hữu phân biệt, hành giả trước hết phải tu tập 30 ngôi vị Bồ Tát hành.

30 ngôi vị Bồ Tát hành này là phương pháp tu tập nhằm mục đích khai triển nơi tâm của hành giả ba năng lực thù thắng. Ba năng lực thù thắng gồm có: Tâm lực Đa văn thù thắng, tâm lực quyết trách thù thắng và tâm lực chỉ thiện căn thù thắng.

– Tâm lực Đa văn thù thắng: Nghĩa là tâm mình có năng lực hiểu biết một cách thù thắng về nơi sự nghe thấy.

– Tâm lực quyết trách thù thắng: Nghĩa là tâm mình có năng lực tuyển chọn tính chất, giá trị và ý nghĩa chân võng, thiện ác, phải quấy, đúng sai của các pháp một cách thù thắng.

– Tâm lực chỉ thiện căn thù thắng: Nghĩa là tâm mình có năng lực thù thắng về nguồn gốc các pháp là lợi ích của phước đức và trí tuệ.

Hành giả hình trì mãi 30 ngôi vị Bồ Tát hành cho được thuần thục, nghĩa là hành trì đến khi nào được thâm nhập vào tâm (nhập tâm) và an trú được trong tâm của mình (trú tâm) thì lúc đó ba năng lực thù thắng nơi tâm thức của mình sẽ xuất hiện. Lúc bấy giờ hành giả sử dụng ba năng lực thù thắng đã đạt được quán chiếu tưởng và dương của duy thức để chuyển tự chứng phần Ý thức thứ sâu thành trí tuệ hữu phân biệt nhằm mục đích tín giải lý duy thức, phát tâm Đại Bồ Đề độ và bồi dưỡng pháp thân Như Lai.

30 ngôi vị Bồ Tát hành: 10 trụ, 10 hành và 10 hồi hướng.

A. Mười Ngôi Vị Trụ (Thập trụ)

Căn cứ nơi lực độ vận hành số dự được thành lập nhằm mục đích an trú được tâm. Điều đáng chú ý 10 trụ đều được xây dựng trên 10 tín tâm gọi là Thập tín vị. 10 trụ gồm có:

1. Sơ phát tâm trụ: Nghĩa là đầu tiên phát khởi Đại tâm tu 10 tín hành:

a) Tín tâm: Nghĩa là phải đem tín tâm phụng sự Tam bảo.

b) Tinh tấn tâm: Nghĩa là phải đem tâm tinh thần tu tập các thiện căn không cho giãn đoạn.

c) Niệm tâm: Nghĩa là phải thường xuyên niệm Tam bảo, niệm lục độ vận hành, niệm vô thường Bồ Đề không cho xao lãng.

d) Định tâm: Nghĩa là phải thường buộc tâm mình an trú nơi sự tưởng và ý nghĩa của Pháp pháp một cách tự tại và xa lửa hận ý tưởng phân biệt về tất cả pháp giả dời, thô tục của thế gian.

e) Huệ tâm: Nghĩa là phải nên quán sát, xét đoán, cân nhắc một cách kỹ lưỡng về ý nghĩa tốt cùng của vận pháp để nhận chân được tự tính vốn không, tịnh lặng, vô ngã, vô nhân của muôn pháp.

g) Giới tâm: Nghĩa là phải giữ gìn tam tự tính giới cho được thanh tịnh, không được thiếu khuyết.

h) Hồi hướng tâm: Nghĩa là đem tâm nguyện của mình luôn luôn hướng về trên cầu Vô Thường Bồ Đề độ và dưới cầu cứu độ tất cả chúng sinh.

i) Hộ pháp tâm: Nghĩa là để phòng và bảo hộ bản tâm của mình không cho nó phát khởi phiền não. Muốn bảo hộ bản tâm của mình, hành giả phải:

  • Tu tập mặc hộ (giữ gìn sự tịnh lặng)
  • Tu tập trí hộ (bảo hộ trí tuệ)
  • Tu tập tứuc tâm hộ (giữ gìn tâm niệm đã dứt các phiền não)

Ngoài ra còn phải giữ gìn năm chủng hành:

  • Thọ trì kinh pháp
  • Độc tụng kinh điển
  • Giảng giải kinh luận
  • Thuyết pháp kinh luận
  • Viết sách Pháp pháp

k) Xả tâm: Nghĩa là phải xả bỏ tâm niệm yêu tiếc sinh mạng và tài sản của mình. Hành giả nếu như đã được tài sản và thân mạng thì có thể bỏ thí xả bỏ khi cần đến mà không khởi tâm luyến tiếc hay hối tiếc.

l) Nguyện tâm: Nghĩa là phải đem tâm nguyện tu tập tự hoằng thệ nguyện cho được viên thành. Tự hoằng thệ nguyện gồm có:

  • Chúng sinh không bỏ mẹ thệ nguyện đều độ khắp.
  • Phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch.
  • Pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học.
  • Phật Đạo không gì hơn thệ nguyện được viên thành.

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức được thể hiện qua bốn trí, khai triển ba năng lực thù thắng để chuyển hóa ý thứcNhững yếu điểm của tư tưởng duy thức được thể hiện qua bốn trí, khai triển ba năng lực thù thắng để chuyển hóa ý thức

2. Trì Địa trụ: Nghĩa là an trú vào nơi sự hành trì, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh trong sáng như lưu ly (tâm không), phát huy tâm tự bi làm lợi ích đến tất cả loài hữu tình, khiến cho các công đức được sinh trưởng, cũng giống như Đại Địa có thể sinh vạn vật.

3. Tu hành trụ: Nghĩa là an trú vào nơi sự tu hành, chuyên trì quán chiếu thù thắng về lý tính vận pháp, phát khởi diều hành lực độ để đi du hành khắp nơi để hóa độ chúng sinh.

4. Sinh quý trụ: Nghĩa là nhờ diều hành của tu hành trụ kết hợp được diều lý nơi nội tâm, nương nơi các pháp của Thánh hiện làm nhân duyên tu tập phát sinh được hạt giống cao quý của Phật tính.

5. Phương tiện cụ tục trụ: Nghĩa là an trú vào những thiện căn đã tu tập được đi tế độ quám sinh làm lợi ích cho mình và cho người.

6. Chính tâm trụ: Nghĩa là an trú vào bản tâm chân chính, tức là định tâm bất động giúp cho Bát Nhã thứ sâu của trí diều quan sát sớm thành tựu viên mãn.

7. Bất thời trụ: Nghĩa là an trú vào nơi chế nghe pháp thâm sâu tâm kiến cố không còn thời chuyển, tức là hành giả ngộ nhập được không giới vô sinh thuộc vô tưởng của tính không chân như.

8. Đường chơn trụ: Đường chơn là non trẻ và trong sạch. Đường chơn trụ nghĩa là an trú vào thời kỳ thanh tịnh trong trạng của bản tâm, không cho tâm niệm phát khởi chút điên đảo mê tưởng, không cho dây niệm tà ma ngoài đạo đi phá hoại hạt giống Bồ Đề.

9. Pháp Vương tự trụ: Nghĩa là an trú vào địa vị con của Phật (Pháp Vương tự). Hành giả ở ngôi vị này đã phát sinh được trí tuệ từ nơi giáo pháp cao quý của Phật (Pháp Vương), tự ngộ được chân để và tục để của vận pháp, xứng đáng là trưởng tự của Phật, đồng thời có bốn phần đem ngôi vị của Phật truyền bá công cộng thêm rộng lớn.

10. Quán đạo trụ: Nghĩa là một vị Bồ Tát đã an trú được ngôi vị này trở thành con của Phật, đầy đủ ba biết tưởng:

  • Có trí tuệ thấu hiểu tưởng tận và rõ mạch tất cả pháp.
  • Đạt được cảnh giới mầu nhiễm của Phật.
  • Đủ khả năng thi hành phật sự rộng độ chúng sinh.

B. Mười Ngôi Vị Hành (Thập hành)

Nghĩa là mười phương pháp tu hành về công hành lợi tha của Bồ Tát. Ở ngôi vị này, Bồ Tát thật hành hành lực độ làng làng đạt đến thứ thắng. Mười hành gồm có:

1) Hoan hỷ hành: Nghĩa là Bồ Tát với hành nguyện hoan hỷ trên mục cầu Phật Đạo dưới thương tưởng đến hữu tình, táo dụng diều đức của Phật để tùy thuận hóa độ chúng sinh trong mười phương.

2) Nhiều ích hành: Nghĩa là Bồ Tát dùng mỗi phương tiện khéo léo làm lợi ích cho chúng sinh và khiến cho chúng sinh không bị mắc cảm trong sự thỉ nhận lợi ích.

3) Vô sân hận hành: Nghĩa là Bồ Tát luôn luôn thể hiện hành nhân nhục với mỗi công việc, tức là không bao giờ tỏ thái độ giễn tức trước bất cứ nghịch cảnh nào và luôn luôn tỏ thể hiện đức khiêm cung với mỗi người, không bao giờ có ý làm tổn hại đến ai cả.

4) Vô tận hành: Nghĩa là Bồ Tát phát tâm Đại tinh tấn nguyện để tất cả chúng sinh không cùng tận. Trên con đường độ sinh, Bồ Tát không chút giãi dã, không chút chùn bước trước mỗi khó khăn đưa đến.

5) Ly si loạn hành (Lìa si mê loạn tâm): Nghĩa là Bồ Tát phải thường an trú chỉ chính niệm nơi pháp thế gian và xuất thế gian không cho tâm bị tán loạn. Bồ Tát đối với tất cả pháp môn đều thông minh sáng suốt, cho đến đối với vận đề nhập thai, trú thai và xuất thai không có chút si mê loạn tâm.

6) Thiện hiện hành (Khéo thất hành công hành hiện tại): Nghĩa là Bồ Tát đã thanh tịnh được ba nghiệp, rõ tháu được gốc rễ của các pháp hữu vi và vô vi, cho nên không bị rằng buộc, không bị chấp trước một pháp nào cả, nhưng vẫn không bỏ công hành giáo hóa chúng sinh.

7) Vô trước hành: Là công hành không nhiễm trước. Bồ Tát ở hành này thường cứng dương chỉ Phật để cầu pháp không nhằm chân. Bồ Tát đối với những pháp môn đã cầu học cũng thường dùng trí tuệ quán chiếu để nhận chân và không bao giờ khởi tâm nhiễm trước một pháp môn nào cả.

8) Tôn trọng hành: Nghĩa là Bồ Tát phải tôn trọng các pháp thuộc thiện căn phước đức và các pháp thuộc trí tuệ giác ngộ, nguyên vì hai pháp nói trên có thể thành tựu được vô lượng công đức an lạc và giải thoát. Bồ Tát tôn trọng hai pháp nói trên bằng cách cần phải tiến tu hai hành: tự lợi và lợi tha cho được viên mãn.

9) Thiện pháp hành: Nghĩa là Bồ Tát phải hoàn thành được bốn pháp môn vô ngại Đà la ni của thiện pháp độ tha để bảo hộ chính pháp và khiến hạt giống Phật không bị diệt mắm. Bốn pháp môn vô ngại Đà la ni gồm có:

– Pháp vô ngại: Nghĩa là tất cả pháp đều thông suốt.

– Nghĩa vô ngại: Nghĩa là tất cả ý nghĩa đều sáng tỏ.

– Từ vô ngại: Nghĩa là trình bày rất máy lạc và vãn pháp rất rõ ràng dễ hiểu.

– Nhạo thuyết vô ngại: Nghĩa là thuyết pháp mãi không bao giờ hết ý và hết lời.

10) Chân thật hành: Nghĩa là thành tựu ngôn ngữ đề nhất ý nghĩa đế, nghĩa là Bồ Tát phải thật hành đúng như lời nói và lời nói đúng như thật hành, lời nói phải đi đôi với việc làm, cho đến sắc và tâm cũng phải hòa thuận tương đắc lẫn nhau, nên gọi là chân thật hành.

Năm cấp bậc tu tập quán chiếu duy thức bao gồm từ Tư lương đến Cứu cánhNăm cấp bậc tu tập quán chiếu duy thức bao gồm từ Tư lương đến Cứu cánh

C. Mười Ngôi Vị Hồi Hướng

Hồi hướng nghĩa là dùng tâm Đại bi để cứu độ tất cả chúng sinh. Mười ngôi vị hồi hướng gồm có:

1. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tưởng hồi hướng: Hồi hướng là hướng về. Ly chúng sinh tưởng là xa lửa danh tưởng chúng sinh, nghĩa là không phân biệt chấp trước kẻ oán người thân. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tưởng nghĩa là hướng về sự xa lửa danh tưởng chúng sinh để cứu hộ tất cả chúng sinh. Một vị Bồ Tát cứu hộ tất cả chúng sinh trong tinh thần bình đẳng vô tưởng, không phân biệt chấp trước kẻ oán người thân. Bồ Tát ở ngôi vị này là áp dụng phương chăm sâu pháp ba la mật và bốn nhiếp pháp để cứu hộ tất cả chúng sinh.

2. Báo hoại hồi hướng: Nghĩa là hướng về sự không hư hoại. Bồ Tát ở ngôi vị này đã không làm mất tín tâm đối với Tam bảo và còn hướng về thiện căn nơi đức tin Tam bảo để giáo hóa và khiến cho chúng sinh được nhiều lợi lạc.

3. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: Nghĩa là hướng về những công hành mà Chỉ Phật ba đời đã làm. Bồ Tát ở ngôi vị này theo gương Chỉ Phật ba đời, bi trí song hành, không nhiễm trước sinh tử, không rời bỏ Đề một bước để tu tập.

4. Chỉ nhất thiết xứ hồi hướng: Nghĩa là hướng về khắp tất cả chán. Bồ Tát ở ngôi vị này đem bao nhiêu thiện căn đã tu tập được hướng về khắp tất cả Tam bảo và đến tất cả chúng sinh để cùng dương những lợi ích.

5. Vô tận công đức táng hồi hướng: Nghĩa là hướng về kho tàng công đức vô cùng tận. Bồ Tát ở ngôi vị này hướng về tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được tùy họ đem ra phụng sự Phật pháp.

6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: Nghĩa là hướng về thiện căn để tùy thuận một cách bình đẳng. Bồ Tát ở ngôi vị này vì Chỉ Phật trong mười phương nên hướng về thiện căn đã tu tập được đi bảo vệ chúng sinh một cách bình đẳng và khiến họ thành tựu kiến cố những thiện căn nói trên.

7. Tùy thuận Đạng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng: Nghĩa là tùy thuận hết thảy thiện căn đã tu tập được để hướng về quán chiếu tất cả chúng sinh. Bồ Tát ở ngôi vị này làm tăng trưởng hết thảy thiện căn để hướng về làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

8. Như tưởng hồi hướng: Nghĩa là hướng về nơi tưởng chân như. Bồ Tát ở ngôi vị này đã thành tựu chỉ chính niệm chỉ chính trí, an trú bất động, không trái với chỉ chính pháp bình đẳng hòa hợp với tưởng chân như Phật tính.

9. Vô phước vô trước giải thoát hồi hướng: Nghĩa là hướng về sự giải thoát không bị trói buộc và không chấp trước. Bồ Tát ở ngôi vị này nhờ hướng về cánh thiện pháp để thật hành hành nguyện Phổ Hiện, thành tựu những hạt giống công đức, cho nên không còn bị trói buộc, không còn chấp trước tất cả pháp.

10. Pháp giới vô lượng hồi hướng: Nghĩa là hướng về vô lượng pháp giới. Bồ Tát ở ngôi vị này đem tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được hướng về nguyện cầu cho vô lượng thế giới sai biệt đều được hết thảy công đức.

Hành giả sau khi thực tập hoàn tất 30 ngôi vị tu tập của Bồ Tát hành một cách thuần thục liên sử dụng ba năng lực thù thắng nói trên quán chiếu tưởng và dương của duy thức để chuyển tự chứng phần Ý thức thứ sâu thành trí tuệ hữu phân biệt với những phương thức sau đây:

a) Quán chiếu tưởng và dương của duy thức:

Tưởng của duy thức tức là cảnh giới của duy thức trong ba cõi và dương của duy thức tức là sự sinh hoạt của duy thức trong ba cõi. Hành giả phải thông suốt tính chất, giá trị và ý nghĩa cảnh giới của duy thức biểu hiện trong ba cõi và sự sinh hoạt của tám thức trong mỗi chúng sinh hữu tình trong ba cõi, nghĩa là:

  1. Phải thông suốt trong ba cõi, cảnh giới nào thuộc về vọng hiện của thế giới chân như pháp tính và cảnh giới nào thuộc về nghiệp duyên của thế giới vọng hiện. Theo Bát Thức Quy Cụ Tưởng của Thích Thắng Hoan, trang 20 giải thích: “Những thế giới vô sắc phần nhiều là thế giới vọng hiện của thế giới chân như lưu xuất và cũng là nền tảng của thế giới nghiệp duyên sinh khởi. Thế giới nghiệp duyên chính là những thế giới sắc giới và những thế giới này được phát sinh là do những thế giới vọng hiện của vô sắc tạo nghiệp thành. Còn những thế giới dục giới cũng là loại thế giới nghiệp duyên và những thế giới này được phát sinh là do những thế giới sắc giới tạo nghiệp bằng cách có động những sắc uẩn kết hợp thành hình”.

  2. Trong Tám thức tâm vương, phải thông suốt những cảnh giới nào nơi ba cõi thuộc tưởng phần của thức nào gây tạo và giá trị của những cảnh giới tương phần nói trên do kiến phần của tâm thức tâm vương gây tạo bằng cách nào.

  3. Trong Tám thức tâm vương, phải thông suốt những thức nào có mặt trong những chúng sinh vô tình và những thức nào có mặt trong những chúng sinh hữu tình. Sự sinh hoạt như thế nào của những tâm thức trong các chúng sinh hữu tình cũng như trong các chúng sinh vô tình. Người nào thông suốt tính chất, giá trị, ý nghĩa tưởng và dương của duy thức qua những điều kiện nói trên là người đó đã trang bị được Tư lương thứ nhất của duy thức hành.

b) Nhiếp phục phiền não chướng và số tri chướng:

Phiền não chướng: Nghĩa là những phiền não làm chướng ngại cho sự giác ngộ. Số tri chướng nghĩa là chế để hiểu biết (đối tượng) mang tính chất ảo giác (Illusions) và điên đảo vọng tưởng làm trở ngại cho sự giác ngộ. Theo duy thức học, trong mỗi con người các phiền não làm chướng ngại gồm có 26 loại thường gọi là 26 tâm sở phiền não. 26 tâm sở phiền não này được chia làm hai nhóm: Một nhóm gọi là căn bản phiền não và một nhóm gọi là tùy phiền não. 26 phiền

Related posts

Đức Phật Ra Đời – Sự Kiện Hiếm Hoi Như Hoa Ưu Đàm Nở Trở Lại

Administrator

Đức Phật và Câu Trả Lời Đáng Suy Ngẫm về Nghiệp

Administrator

Ba Đồng Cùng Dưỡng Chư Tăng, 91 Kiếp Hưởng Phước

Administrator