Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, các thần chú (mantra) được xem là tinh tuý của giáo pháp, là âm thanh linh thiêng chứa đựng nội lực Phật tâm. Hai bài thần chú nổi tiếng nhất, được những người tu học lâu đời xem là pháp khí tu tập quý báu nhất, chính là thần chú Kim Cang Thượng Sư (Vajra Guru Mantra) và thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát – thần chú Đại Bi (Avalokiteshvara Mantra). Đây không chỉ là những hành pháp tu luyện, mà còn là những tác dụng kỳ diệu để chuyển hoá tinh thần, giải thoát khổ đau và pháp khí bảo vệ chúng ta trên con đường tu tập.
Cả hai thần chú này đều có bản chất linh thiêng, độc đáo so với các phương pháp tu tập khác. Chúng được lưu truyền từ đời kỳ Phật tổ, qua các bậc thánh thương xác nhận giá trị tu tập và nên tính cần thiết để giúp chúng sanh vượt qua luân hồi sinh tử.
Thần Chú Kim Cang Thượng Sư: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
Thần chú này được xem là tinh tuý của Tây Tạng, tập hợp trí tuệ sâu sắc từ các vị thầy vĩ đại như Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche. Nó không chỉ là một dãy âm thanh đơn thuần, mà là một phương tiện linh thiêng để tiếp nhận ân sủng của Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) – vị khổi sư của Tây Tạng.
Liên Hoa Sanh – bẰc thái sư kì vĩ của Tây Tạng trong hình tượng linh thiêng
Ý Nghĩa Ba Âm OM AH HUM
Ba âm này mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc. Ở tầng ngoài, ba âm tượng trưng cho thân, khẩu, ý – ba yếu tố cơ bản của con người. OM tiêu biểu cho các tệ nghiệp của thân, AH cho lời nói, HUM cho ý thức. Nhờ tinh hóa ba yếu tố này, ba âm mang lại ân sủng của thân, khẩu, ý của các vị Phật để chuyển hoá chúng ta.
Theo nghĩa ngoại, ba âm này tương ứng với tinh túy của hình sắc, âm thanh, và ý thức. Khi tụng thần chú này, ta tinh hóa toàn cảnh lẫn bản thân và những người ở trong đó – tất cả nhận thức, tất cả âm thanh, và tất cả tâm ý, cảm xúc đều được tinh hóa. Ở tầng sâu hơn, theo giáo pháp bí mật, OM tiêu biểu cho huyết đạo vi tế, AH tiêu biểu cho nội phong hay khí lực, HUM tiêu biểu cho tinh chất sáng tạo.
Ba bộ Phật thân tương ứng với OM AH HUM trong giáo pháp Tây Tạng
Ở tầng mục đích cao nhất, ba âm biểu trưng ba thân của Liên Hoa Bộ: OM là Pháp thân – Phật A Di Đà, vị Phật của ánh sáng vô lượng, AH là Báo thân – Quan Thế Âm, vị Phật của tâm đại bi, HUM là Ứng hóa thân – Liên Hoa Sanh. Điều này có ý nghĩa là trong trường hợp của thần chú này, cả ba thân đều thể hiện trong một vị là Padmasambhava, vị khổi sư vĩ đại của Tây Tạng.
VAJRA GURU PADMA: Ba Từ Quyền Năng
VAJRA được tưởng tượng như kim cương – chất liệu cứng cáp nhất, quý báu nhất. Cũng như kim cương có thể cắt bất cứ gì nhưng chính nó không bao giờ bị phá hủy, nên nó tượng trưng cho bản chất bất khả xâm phạm, bất biến của chân lý Phật. Những đức tính và hoạt động thân, khẩu, ý của các vị Phật có thể lợi lạc hữu tình với năng lực sắc bén và vô ngại như kim cương.
GURU có nghĩa là “sức nặng” – chỉ một người tràn đầy đức tính kỳ diệu, thể hiện trí tuệ, hiểu biết, từ bi và phương tiện thiện xảo. Cũng như vàng là kim loại nặng nhất và quý báu nhất, nên nó tượng trưng cho những đức không lỗi, không thể vượt qua của một vị thầy. GURU tương ứng với Báo thân và với Quan Thế Âm – vị Phật của tâm đại bi. Vì Padmasambhava giảng dạy con đường Mật tông, biểu tượng là Kim cương, nên người đó được biết dưới danh hiệu Kim Cang Thượng Sư.
Thần chú Kim Cang Thượng Sư được tụng tập để nhận ân sủng của Liên Hoa Sanh
PADMA là hoa sen – tiêu biểu cho cộng đồng Phật đã tu tập và đạt tới giác ngộ. Hoa sen là từng hộ Phật mà con người thuộc vào. Bởi Padmasambhava là ứng thân trực tiếp của Phật A Di Đà – vị Phật nguyên thủ của Liên Hoa bộ, nên người đó được gọi là “PADMA”, hoa sen. Danh hiệu Liên Hoa Sanh của người có ý chí chỉ câu chuyện người sinh ra trên một đóa sen ở. Khi ba âm VAJRA GURU PADMA đi liên nhau, nó cũng có ý nghĩa là tinh tuý và ân sủng của Kiến, Thiền và Hành.
SIDDHI HUM: Ân Sủng Vô Lượng
SIDDHI là thành tựu, đặt đến, ân sủng và chứng ngộ. Có hai thứ thành tựu: tương đối và tuyệt đối. Nhờ nhận được ân sủng tương đối, tất cả chướng ngại trong đời như bệnh tật được tiêu trừ, mọi ước nguyện tốt được thành tựu, những lợi lạc như sống lâu, tiền của tăng được toàn, mọi hoàn cảnh đều tốt lành, giúp cho tu tiến và chứng ngộ.
Thành tựu hay ân sủng tuyệt đối đem lại giác ngộ – trạng thái thức chứng hoàn toàn của đẳng Liên Hoa Sanh để tự lợi và lợi tha. Bởi thế, nhờ nhắp đến và cầu nguyện với những năng lực thân, khẩu, ý của người mà chúng ta sẽ được những ân sủng tương đối và tuyệt đối.
HUM tiêu biểu tâm giác ngộ của các vị Phật và là xúc tác thiêng liêng của thần chú. Giống như tuyên bố lên quyền năng và chân lý của thần chú: “Hãy là như vậy!” SIDDHI HUM được xem là thâu tóm vào tất cả ân sủng, như nam châm hút sắt. Ý nghĩa cốt yếu của bài chú là: “Con triệu thỉnh ngôi, đẳng Kim cang Thượng Sư, với ân sủng của ngôi, xin hãy ban cho con những thành tựu thế gian và xuất thế gian”.
Dilgo Khientse Rinpoche giải thích rằng mười hai âm trong OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM mang tất cả ân sủng của mười hai bộ kinh giáo của Phật, tinh tuý của tám muốn bốn ngàn pháp môn. Bởi thế, tụng một lần thần chú Kim Cang Thượng Sư cũng có phước như là đã đọc mười hai bộ kinh điển và thực hành các pháp môn khác. Mười hai bộ kinh điển là phương thuốc giải cứu chúng ta khỏi mười hai nhân duyên giam giữ chúng ta trong vòng sinh tử.
Thần Chú Đại Bi: OM MANI PADME HUM
Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả các vị Phật, Bồ Tát, nhất là ân sủng của Quan Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quan Tự Tại (hay Quan Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của người được xem là tinh tuý của lòng bi mẫn của các vị Phật đối với hữu tình. Nếu Liên Hoa Sanh là bậc tháy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quan Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của hộ, là vị Phật thần kỳ mạng của dân tộc này.
Quan Thế Âm với nụ cười từ bi hạ nhìn xuống những chúng sanh khổ đau
Truyền Thuyết Về Nguồn Gốc Thần Chú
Tương truyền rằng vô lượng kiếp về trước có một người thái tử phát tâm Bồ Đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết; nhưng Quan Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chánh giác khi mà tất cả chúng sanh chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, người còn nguyện giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi khổ luân hồi sinh tử trong lục đạo. Trước mười phương các vị Phật, người phát nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mất mệnh trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.
Đầu tiên, người xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đây người tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù người đã cứu vô số chúng sanh thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho người đau buồn vô tận, trong một lúc người gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vì người đã phát, và thân thể người liền nứt tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt vọng, người kêu cứu tất cả các vị Phật.
Những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, các vị Phật làm cho người hiện toàn thân trở lại, và từ đây Quan Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng bàn tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình thức này, người còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sanh. Tâm đại bi của người khi đó còn mãnh liệt hơn nữa, và người lại phát lời nguyện này trước các vị Phật: “Con nguyện không thành Chánh giác khi tất cả chúng sanh chưa thành”.
Các nữ thần Tara – biểu tượng của hành động thương xót trong Phật giáo Tây Tạng
Ý Nghĩa Từng Âm Trong Thần Chú
Tương truyền rằng vì đau buồn trước nơi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước nước mắt đã rơi từ đôi mắt của người, và các vị Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara. Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiểu của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải cứu, người chuyên chỗ chúng ta vượt qua biển sinh tử.
Theo kinh điển Đại thừa, chính Quan Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho người công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sanh tiến đến giác ngộ. Vào lúc đó, các thiên thần tung hoa xuống ca ngợi hai vị, quả Đất chắn đường, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.
Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả các vị Phật. Các tông phái Phật giáo đều công nhận rằng sáu âm trong OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hoá thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tinh hóa tất cả sáu phiền não gốc – biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những áo nghiệp của thân, khẩu, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, nhờ trí giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ.
Bởi thế, khi ta tụng thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tinh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nơi khổ ẩn tầng trong mỗi cõi. Đồng thời thần chú này cũng tinh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạ siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhân nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Những người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chỗ ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật bệnh.
Ý Nghĩa Sâu Sắc Của Thần Chú
Thường có chủng tử HRIH của Quan Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả các vị Phật, là chất xúc tác đã khơi động tâm đại bi các vị Phật để chuyển hoá các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các vị.
Một cách khác để giải thích thần chú này là: OM là tính chất của thân giác ngộ, MANI PADME tiêu biểu cho ngũ giác ngộ, HUM tiêu biểu cho ý giác ngộ. Thân, ngũ, ý của tất cả các vị Phật được tâng ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tinh hóa những chướng ngại của thân, khẩu, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tấn thiền định thì năng lực chuyển hoá của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng.
Kalu Rinpoche viết rằng: Mười hai âm này mang tất cả ân sủng của mười hai bộ kinh giáo của Phật, tinh tuý của tám muốn bốn ngàn pháp môn. Bởi thế, tụng một lần thần chú Đại Bi cũng có phước như là đã đọc mười hai bộ kinh điển và thực hành các pháp môn khác. Mười hai bộ kinh điển là phương thuốc giải cứu chúng ta khỏi mười hai nhân duyên giam giữ chúng ta trong vòng sinh tử – những chiếc xích kết nối như bánh xe của luân hồi sinh tử, làm cho luân hồi tiếp nối. Nhờ tụng mười hai âm này của thần chú Đại Bi mà mười hai nhân duyên được tinh hóa, tẩy sạch cấu uế của nghiệp cảm và giải thoát sinh tử.
Âm thanh linh thiêng của thần chú vang lên từ tâm bi vô biên của các vị Phật
Trong thời đại khó khăn này, không có chế nương nào bảo đảm hơn là đẳng Liên Hoa Sanh, cũng như không có thần chú nào thích hợp hơn thần chú Kim Cang Thượng Sư của người. Tương tự, những người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM là tinh tuý của tất cả những gì Phật đã dạy, là tinh chúc của tâm từ bi tối thượng.
Những lời kính ngưỡng trong kinh Lăng Nghiêm cũng nhắc nhở chúng ta: “Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quan Thế Âm. Đây là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều tầm láy. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết bàn”.
Hai bài thần chú này không chỉ là những công cụ tu tập truyền thống, mà còn là những phương tiện tu học hiệu quả để chuyển hoá tâm thức, xua tan phiền não và tiếp nhận ân sủng của các vị Phật, Bồ Tát. Khi tu tập hai thần chú này với tâm từ bi, niềm tin và tinh tấn, chúng ta không chỉ tự cứu mình mà còn cứu độ tất cả chúng sanh.