Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Nhà Tu Hành Yêu Nước Và Cách Mạng: Di Sản Của Sư Ba Hòa Thượng Bình Lương

Lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi dấu những trang anh hùng của các vị Hòa thượng, vị sư lỗi lạc không chỉ nhuần nhuyễn kinh kệ mà còn mang trên vai trách nhiệm yêu nước, cách mạng. Một trong những hình ảnh sống động nhất của sự kết hợp giữa hạnh tu tập và tinh thần yêu nước là vị Sư Ba Hòa Thượng Bình Lương (tục danh Phạm Ngọc Đạt, sinh năm 1882 – mất năm 1966). Cuộc đời ông không chỉ là câu chuyện về một nhà tu hành tâm linh, mà còn là minh chứng sống động cho chân lý rằng Phật giáo không tách rời khỏi cuộc sống thực tế, yêu thương con người, và vì mục tiêu cao cả của dân tộc.

Ngày 21 tháng 4 năm 1966, lễ tang Hòa Thượng Bình Lương được tổ chức trang trọng tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trực tiếp đến đặt vòng hoa viếng của Bác Hồ, trên đó có dòng chữ thêu: “Kính viếng Hòa Thượng Bình Lương, tức Phạm Ngọc Đạt, nhà tu hành yêu nước.” Đây không phải là một danh hiệu bình thường, mà là sự ghi nhận chính thức từ lãnh đạo nhà nước về một cuộc đời cống hiến cho cả Phật pháp lẫn đất nước. Bức thư này, sau 45 năm bị lãng quên, mới được khôi phục và công khai, cho phép thế hệ sau hiểu rõ hơn về công lao và nhân cách của vị sư này.

Xuất Thân Từ Gia Đình Cách Mạng Anh Hùng

Để hiểu rõ về Hòa Thượng Bình Lương, chúng ta phải nhìn lại gia đình và thời đại mà ông lớn lên. Vào nửa sau thế kỷ XIX, tại thôn An Nghĩa, xã Hữu Bằng (về sau là Sơn Bằng), vợ chồng cụ Phạm Dục và Đào Thị Thẩm sinh ra ba người con là Phạm Quân, Phạm Đặng và Phạm Ngọc Đạt. Năm 1884, bà Đào Thị Thẩm mất, lúc đó Phạm Ngọc Đạt chỉ mới 2 tuổi. Vào những năm đầu của cuộc đời, ông đã phải chứng kiến sự anh dũng của những thành viên gia đình trong các phong trào kháng chiến chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

Năm 1885, Phan Đình Phùng dấy lên khởi nghĩa anh hùng chống thực dân Pháp. Cụ Phạm Dục, cha của Phạm Ngọc Đạt, tham gia khởi nghĩa từ những ngày đầu tiên. Hai anh trai của Phạm Ngọc Đạt, Phạm Quân và Phạm Đặng, cũng nối gương cha, tham gia vào dòng người anh dũng bảo vệ đất nước. Dù phải chịu đựng những cực刑dã man từ quân thực dân Pháp – những chuỗi ngày bị giam giữ trong tù giam tối tăm – những người anh dũng này vẫn không lay chuyển quyết tâm cách mạng. Năm 1895, thủ lĩnh Phan Đình Phùng hy sinh, và một năm sau, phong trào thất bại. Để tránh được cuộc tấn máu của giặc Pháp và những kẻ tay sai họ, các chiến sĩ khởi nghĩa phải ẩn náu giữa đại ngàn, tiếp tục tìm cơ hội cứu nước cứu dân.

Sư Ba Hòa Thượng Bình Lương nhận sắc phong năm 1937, người thầy tâm linh vừa là nhà cách mạng yêu nướcSư Ba Hòa Thượng Bình Lương nhận sắc phong năm 1937, người thầy tâm linh vừa là nhà cách mạng yêu nước

Con Đường Từ Cách Mạng Đến Phật Pháp

Những năm đầu thế kỷ XX, Phạm Ngọc Đạt – người được gọi là Sư Ba trong đời tu – cùng một số chiến sĩ khởi nghĩa khác đã vượt sang Lào, rồi sang Xiêm (Thái Lan). Tại Xiêm, ông tiếp tục hoạt động trong phong trào “Đông du” của Phan Bội Châu, liên kết với phong trào của Đặng Thúc Hứa. Những phong trào này hướng đến mục đích giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của thực dân. Tuy nhiên, các tổ chức này không giành được thắng lợi. Chính vì thế, Phạm Ngọc Đạt đã tìm cách liên lạc với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1926, ông nhận ra rằng Nguyễn Ái Quốc là người có chí hướng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng mới, hiện đại hơn. Năm 1928, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan và giao cho Phạm Ngọc Đạt nhiệm vụ tổ chức tập hợp Việt kiều tại Thái Lan thành một tổ chức, đồng thời đứng đầu tờ báo “Thần Ái” nhằm tập hợp những người yêu nước. Thời gian này, “Chùa Tự Tế tự” ở Thái Lan không chỉ là nơi tu tập tâm linh mà còn là nơi che chở, nuôi dưỡng những cán bộ cách mạng. Những nhân vật lỏi lạc như Bác Hồ, Ung Văn Khiêm, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Hoan… đều được Sư Ba hỗ trợ và bảo vệ trong những hoạt động cách mạng của họ.

Sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Hòa Thượng Bình Lương vẫn tiếp tục lưu lại Thái Lan với những hoạt động vì cộng đồng Việt kiều. Năm 1964, tuổi đã cao, sức yếu, ông xin ý kiến Bác Hồ để trở về nước sau gần 60 năm xa Tổ quốc. Ông về với nguyện vọng được nhìn thấy miền Bắc xã hội chủ nghĩa, được gặp lại bạn bè đồng chí và thăm gia đình. Tuy nhiên, vì tuổi cao và sức khỏe suy yếu, những nguyện vọng này chưa kịp thực hiện trọn vẹn trong thời gian sống.

Lễ Tang Trang Trọng Và Sự Ghi Nhận Từ Quốc Gia

Khi nhận được tin Hòa Thượng Bình Lương từ trần, Bộ Nội Vụ đã báo cáo ngay lên Bác Hồ và Chính phủ. Các cơ quan hữu quan như Hội Phật giáo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tờ báo, và Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam đều được thông báo. Bác Hồ gửi một vòng hoa lớn, đẹp, có dòng chữ thêu trên bằng sa-tanh: “Kính viếng Hòa Thượng Bình Lương, tức Phạm Ngọc Đạt, nhà tu hành yêu nước” với dòng chữ quý giá và vô cùng ý nghĩa: “Đồng chí Hồ Chí Minh”.

Lễ tang Hòa Thượng Bình Lương được tổ chức trọng thể với sự tham dự của các vị cao cấp nhà nướcLễ tang Hòa Thượng Bình Lương được tổ chức trọng thể với sự tham dự của các vị cao cấp nhà nước

Sáng ngày 20 tháng 4 năm 1966, Ban Tổ chức Lễ tang gồm đại biểu của Ban Việt kiều Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Trung ương, Hội Phật giáo Trung ương cùng với Hòa Thượng Thích Trí Độ (Hội trưởng Hội Phật giáo miền Bắc), Hòa Thượng Thích Tháu Hòa (Hội trưởng Hội Phật giáo Hà Nội), Hòa Thượng Trần Văn Dung và Độc Tuệ cùng các vị đại diện Bộ Nội Vụ, Mặt trận Tổ quốc Trung ương đến Bệnh viện Việt-Xô để tiếp nhận và đưa di hài về chùa Quán Sứ.

Đêm 20 tháng 4, những vị Hòa Thượng nêu trên, các vị sư sẽ cùng các ni, tăng tu tịnh hành Lễ khám liệm và nhập quan. Thân thể được liệm vảy và phủ áo ca-sa bên ngoài. Các nhà sư thay nhau gõ mõ, cầu kinh suốt đêm. Trong hoàn cảnh có chiến sự, đi lại khó khăn, Ban tổ chức tang lễ đã sắm một quan tài làm bằng gỗ vàng tâm loại 1 chắt trọ sẵn sàng.

Sáng 21 tháng 4, Bác Hồ gửi vòng hoa của Người đến chùa Quán Sứ kính viếng hương hơn Hòa Thượng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đến chùa Quán Sứ trực tiếp đặt vòng hoa và mặc niệm trước quan tài Hòa Thượng. Ngoài ra, còn có các vị khách cao cấp trong Chính phủ, trong Mặt trận Tổ quốc Trung ương, các vị đại diện các tôn giáo cũng đến đặt vòng hoa và mặc niệm trước quan tài Hòa Thượng. Đông đảo cán bộ và bà con Việt kiều từ Thái Lan cũng có mặt để tỏ lòng tôn kính và tiễn đưa vị sư lỗi lạc này.

Công Lao Nhân Đạo: Cứu Mang Những Chiến Sĩ Bị Thương

Trong những hoạt động từ thiện tâm linh của mình, Hòa Thượng Bình Lương không chỉ dừng lại ở việc tu tập mà còn chủ động giúp đỡ những người gặp khó khăn. Cụ Đào Văn Phẩm, sinh năm 1922, nhà sư 70 của đường Lê Huân, thành phố Vinh, là chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào năm 1946, đã để lại hồi ký sâu sắc về công lao nhân đạo này của Sư Ba.

Trong những trận chiến ác liệt với quân Pháp tại Nam Lào, Phạm Văn Phẩm bị thương rất nặng. Đội Việt của ông đã vượt sông Mê Kông để đưa các chiến sĩ bị thương qua đất Thái, vào chùa Tự Tế tự tại Băng Cốc (tiếng Thái là Wat Lokanuckor). Tại đây, những chiến sĩ bị thương được Sư Ba – một vị tu sĩ người Việt – che chở, chăm sóc chu đáo trong nhiều tháng liên tiếp. Khi biết rằng Phạm Văn Phẩm quê xã Hữu Bằng (nay là Sơn Bằng), Sư Ba đã tỏ ý rằng: Thời áy những người yêu nước trong Tổ chức Thanh niên Cách mạng Đông duу có ý định muốn Sư Ba xây dựng một ngôi chùa theo kiến trúc Việt Nam, để người Việt nhìn thấy chùa là nhân biểu tượng của yêu nước và gắn bó với Tổ quốc.

Sư Ba Hòa Thượng Bình Lương trong hoạt động từ thiện và tu tập tại chùa Tự Tế tự ở Thái LanSư Ba Hòa Thượng Bình Lương trong hoạt động từ thiện và tu tập tại chùa Tự Tế tự ở Thái Lan

Lúc đầu, Sư Ba vận động Việt kiều quyên góp để xây dựng ngôi chùa nhỏ nhắn, nhưng số tiền còn lại sau đó, ông chủ yếu dành để lập bộ rào chắn xung quanh và mở rộng toàn bộ khuôn viên. Khi Băng Cốc phát triển, đất đai khan hiếm, Sư Ba lấy nguồn nuôi dưỡng để chia khuôn viên thành từng lô nhỏ cho người Hoa thuê dạo nhà buôn bán làm ăn. Đến hạn trả tiền nhiều người phải gánh nặng, Sư Ba dùng tiền này để tái dựng chùa khang trang, và tiếp tục vận động Việt kiều quyên góp tiền, vàng gửi về nước để ủng hộ khẩn chiến. Sư Ba được Việt kiều và người Thái ái mộ, được nhà Vua Thái đời thứ 7 và thứ 9 phong sắc hai lần vào các năm 1937 và 1948. Đó là sự khẳng định rõ ràng về đóng góp của vị sư người Việt với Phật pháp tại Thái Lan.

Di Sản Và Ý Nghĩa Hiên Nay

Sinh ra, lớn lên trong thời kỳ nước nhà bị nô lệ hóa, Phạm Ngọc Đạt đã thực sự là một nhà tu hành yêu nước – chế độ và chí hướng giáo lý Phật đạo được ông kết hợp một cách hài hòa với tinh thần cách mạng. Hơn 60 năm hoạt động xa Tổ quốc trong mài áo cà sa, chân dung nhà tu hành yêu nước và cách mạng nội tiếng vẫn chưa được hiện ra rõ nét giữa cuộc đời. Trong 45 năm di hài được yên nghỉ (sau đó là di hài của Hòa Thượng Thích Trí Độ), di hài được đặt trang trọng trong một ngôi tháp tại chùa Hoàng Ân, Quảng Bá, Hà Nội, những thế hệ con cháu nội tộc họ Phạm, cơ dân xã Sơn Bằng, cơ dân huyện Hương Sơn và tỉnh Hà Tĩnh nói chung vẫn đang rất “lẻ loi” về chân dung của cụ Phạm Ngọc Đạt. Ngày nay, do hoàn cảnh lịch sử không có cơ quan chức năng nào đứng ra hướng dẫn gia đình, họ tộc lập hộ sơ để trình Chủ tịch nước xem xét công lao của cụ Sư Ba.

Uống nước nhớ nguồn, việc truy tặng phần thưởng cao quý đối với một người đã từng cứu mang Bác Hồ và nhiều nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam trong thời gian trên đất Xiêm, là một việc cần làm không bao giờ muộn. Cuộc đời của Hòa Thượng Bình Lương là minh chứng sống động rằng Phật giáo không phải là tôn giáo tách biệt khỏi xã hội mà là một lực lượng nên tính khí lồng lộn mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững và yêu thương nước, yêu thương con người. Trong thời đại ngày nay, di sản của vị Hòa Thượng lỗi lạc này vẫn nơi còn giá trị sâu sắc, gợi nhắc cho chúng ta về sự kết hợp hài hòa giữa tâm linh Phật học với tinh thần yêu nước, góp phần xây dựng một xã hội tốt lành hơn.


Tài Liệu Tham Khảo Kinh Điển Và Lịch Sử Phật Giáo

Câu chuyện về Hòa Thượng Bình Lương phản ánh tinh thần của Kinh Địa Tạng Bồ Tát, nơi dạy rằng những ai dấn thân vì công ích của đất nước, của nhân dân đều là những bodhisattva (bồ tát) thực hành Phật pháp trong thế gian. Lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi nhận rằng những vị cao tăng yêu nước không chỉ giữ gìn kinh kệ mà còn thực sự bảo vệ dân tộc, góp phần cứu vớt nhân dân khỏi khổ đau. Đó là cách hiểu sâu sắc về sự từ bi và trí tuệ (từ – bi – hỷ – xả) trong Phật giáo Việt Nam truyền thống.

Related posts

Đại Tử Nhất Phiên (Phần 1): Giáo Lý Về Cách Diệt Khổ Đời

Administrator

Nhân Quả Tự Tác: Tâm Lý Định Dự Mạng Số

Administrator

Trí Tuệ Phật Sâu Đến Mức Nào?

Administrator