Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Cuộc Đời Tu Học và Hành Đạo của Thiền Sư Pháp Loa

Thiền Sư Pháp Loa, Tổ Thứ Hai của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam, tên thật là Dương Kiên Cường, sinh ngày mùng 7 tháng 5 năm 1284 tại Xã Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ngay từ thời nhỏ, vị thiền sư đã thể hiện tâm tính cao đẹp: không nói lời ác, không ăn thịt cá. Cha mẹ Pháp Loa có tám người con gái. Khi lại lần thứ chín, họ đã uống thuốc phá thai nhưng bất thành. Vì thế khi sinh ra, cậu bé được đặt tên là Kiên Cường, tượng trưng cho sự kiên cường vượt qua mọi trở ngại.

Năm 1304, khi Pháp Loa mười lăm tuổi, Trúc Lâm Tổ Sư Thiền Phái đi du hành các miền thôn quê, gặp cha mẹ Pháp Loa và xin hộ đem cậu bé đi xuất gia. Trúc Lâm liền gửi Pháp Loa học tập với Hòa Thượng Tính Giác tại Quảng Quân. Lúc này Pháp Loa được Trúc Lâm đặt tên là Thiền Lai. Tuy nhiên, Thiền Lai khi hỏi Hòa Thượng Tính Giác về các vấn đề tu hành vẫn chưa được khai thị rõ ràng. Phải cho đến khi đọc kinh Lăng Nghiêm, đặc biệt là đoạn A Nan bảy lần hỏi về vị trí của tâm, Pháp Loa mới bắt đầu thấy có sự sáng suốt. Một hôm, khi gặp Trúc Lâm đang thăng bước cúng bài tường thái dương ở kỳ, Pháp Loa đột nhiên chứng ngộ. Trúc Lâm nhận ra sự giác ngộ ấy liền bảo Pháp Loa theo mình.

Một đêm khác, khi Pháp Loa trình Trúc Lâm một bài tường về “tam yếu”, Trúc Lâm liền gạch một gạch dài từ trên xuống dưới. Sau bốn lần thỉnh cầu, Trúc Lâm vẫn không chỉ giáo, bảo Pháp Loa tự mình tham khảo. Đêm ấy, Pháp Loa về phòng nệp lục thiền quán. Quá nửa đêm, nhận thấy hoa đèn rụng rơi, Pháp Loa bèn đại ngộ. Liền đem chỗ sáng suốt ấy lên trình Trúc Lâm và được ấn chứng. Từ đó, Pháp Loa phát nguyện tu theo mười hai hạnh đầu đó, bắt chước Trúc Lâm.

Sự Hiện Tương tu Học của Thiền Sư Pháp Loa

Năm 1305, Pháp Loa được Trúc Lâm cho thọ giới Tứ Khoá và Bồ Tát, đặt pháp danh là Pháp Loa. Năm 1306, vị thiền sư được lập làm giảng chủ chùa Bảo Ân. Năm 1307, cùng với sáu vị đệ tử khác của Trúc Lâm, Pháp Loa được dạy cho bộ Đại Tạng Ngữ Lục trên am Quảng Trứ. Vào tháng năm năm ấy, trên am Định Trứ, và vào ngày rằm, Pháp Loa được Trúc Lâm trao y bát và tâm kế. Như vậy, vị thiền sư đã được đắc pháp chỉ sau hơn ba năm tu học. Mở đầu năm Mậu Thân (1308), Pháp Loa được chính thức làm trụ trì chùa Bảo Ân tại Siêu Loại, và được giao cho chức vụ Tổ Thứ Hai của thiền phái Trúc Lâm. Năm ấy, nhà nước cũng cấp chùa một trăm mẫu ruộng và người cây để lấy hoa lợi cho chùa.

Thiền Sư Pháp Loa mất năm 1330, thọ 47 tuổi. Ông tu học được 26 năm, trong đó có 23 năm trong chức vụ lãnh đạo Giáo hội. Cuộc đời hành đạo của ông cũng rất hoạt động không kém gì Trúc Lâm.

Trong thời gian Thiền Sư Pháp Loa hành đạo, số lượng tự viện của Trúc Lâm tăng lên rất nhiều. Phong trào học Phật lan rộng, số người xuất gia và quy y cũng tăng gia rất mau chóng. Trong giới người quyền quý, cũng có nhiều người xuất gia hoặc quy y. Nhưng phát sự đáng kể nhất trong đời Thiền Sư Pháp Loa là sự ấn hành Đại Tạng Kinh.

Thiền Sư Pháp Loa - Tổ Thứ Hai của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam với những dấu tích lịch sử sâu sắcThiền Sư Pháp Loa – Tổ Thứ Hai của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam với những dấu tích lịch sử sâu sắc

Công Trình In Ấn Đại Tạng Kinh Triều Trần

Tháng hai năm Ất Mùi (1295), có sứ nhân Nguyên là Tiêu Thái Đặng sang. Khi Thái Đặng về, vua Anh Tông cho nội viện ngoại lang là Trần Khắc Dương và Phạm Thảo cùng đi theo. Mục đích là thỉnh một bản Đại Tạng Kinh mới nhất của Trung Hoa. Bản này sau được cát ở phủ Thiên Trường. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi là “bản phó được in để lưu hành”. Công việc khắc bản Gốc Đại Tạng Kinh đã tiến hành trong bao lâu?

Ta chỉ thấy nói vào tháng chạp năm Kỷ Mùi (1319), tăng sơ và cơ sơ cùng hiến máu in một Đại Tạng Kinh trên 5.000 quyển để an trí tại chùa Quảng Lâm. Đây có lẽ là bản in đầu tiên để khá thành; chính Pháp Loa đã kêu gọi việc hiến máu. Như vậy là việc khắc bản đã hoàn thành và vào năm 1319; thời gian khắc bản là 24 năm, kể cả ba năm công việc bị giãn đoạn.

Sách Tam Tổ Thực Lục cũng ghi năm 1329 Thiền Sư Pháp Loa lại cho in Đại Tạng Kinh. Bản Đại Tạng Kinh được thực hiện tại kinh đô Việt Nam do Bảo phác chủ trương, tương đối ngắn hơn bản 1294 của nhà Nguyên. Vì Bảo Phác trong khi tục san đã bỏ đi một số các kinh mục không thông dụng. Số quyển còn lại trên 5.000 quyển so với số 6.010 quyển của bản chùa Phổ Ninh. Những tác phẩm của Trúc Lâm như Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, và những kinh điển khác đều được đưa vào Đại Tạng để phát hành. Nhờ công trình này, kinh sách Phật giáo Việt Nam được bảo tồn và lưu truyền đến đời sau.

Việc khắc bản Đại Tạng Kinh là một công trình vĩ đại mà không có chùa nào hồi đó đủ sức một mình tự làm. Bảo Phác chắc chắn đã thực hiện bản này với sự ủng hộ tận lực của triều đình, và dưới quyền thiền sư chắc chắn có hàng trăm người viết chữ và có hàng trăm người khắc bản. Chắc rằng nếu không có sự trợ lực về tài chính và nhân công của chính quyền thì Bảo Phác đã không thể nào làm được việc ấy. Hai mươi năm trời đã được đề ra để thực hiện bản này, thời gian này có thể gọi là ngắn ngủi.

Những bộ kinh điển được ấn hành dưới thời Thiền Sư Pháp Loa thể hiện sự giáo hóa toàn diệnNhững bộ kinh điển được ấn hành dưới thời Thiền Sư Pháp Loa thể hiện sự giáo hóa toàn diện

Những Tác Phẩm của Thiền Sư Pháp Loa

Thiền Sư Pháp Loa cũng có chủ giải nhiều kinh điển, sáng tác nhiều sách giáo khoa Phật học và biên tập nhiều nghi thức. Những tác phẩm của thiền sư hầu như đã được đưa vào Đại Tạng nhà Trần. Dưới đây là những sách của ông làm:

  1. Thạch Thất Mỹ Ngữ Niệm Tổng: Những lưu nhận xét và những bài kệ tổng viết về tác phẩm Thạch Thất Mỹ Ngữ của Trúc Lâm.

  2. Tham Thiền Yếu Chỉ: Soạn năm 1322 theo lời yêu cầu của Thượng Hoàng Minh Tông. Sau đó Minh Tông ban hiệu cho Pháp Loa là Minh Giác.

  3. Kim Cương Trường Ô Nia Kinh Khoa Chú: Phân tích và chú giải kinh Kim Cương Trường Ô Nia.

  4. Thiền Sư Pháp Hoa Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải kinh Pháp Hoa.

  5. Lăng Già Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải kinh Lăng Già.

  6. Bát Nhã Tâm Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải Tâm Kinh Bát Nhã.

Các sách khoa sớ này là những sách giáo khoa Phật học quan trọng. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm này đều thất lạc theo thời gian, chỉ còn một phần của sách Tham Thiền Yếu Chỉ được giữ lại dưới tên Thiền Đạo Yếu Học. Những tác phẩm của Pháp Loa đều được khắc và in năm 1323.

Phát Triển Giáo Hội Dưới Lãnh Đạo Pháp Loa

Số người xuất gia và gia nhập giáo hội Trúc Lâm ngày càng đông. Tháng chín năm Quý Sửu (1313), Thiền Sư Pháp Loa phủng chiếu đến cơ trụ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, đặt văn phòng trung ương của giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sổ tăng tích. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tăng sơ có hộ sơ tại Giáo hội Trung ương. Thiền Sư Pháp Loa thấy số lượng tăng sơ đông quá liên quyết định ba năm mới có một lần độ tăng. Giới độ tăng ba năm được tự chức một lần, và mỗi lần số người xin thọ giới bị thải ra có đến hàng nghìn người.

Tính đến năm 1329, số tăng sơ được xuất gia trong những giới độ do giáo hội Trúc Lâm tự chức dưới quyền lãnh đạo của Thiền Sư Pháp Loa là trên 15.000 vị. Về tự viện, năm 1313 có tới trên 100 ngôi chùa thuộc vào giáo hội Trúc Lâm. Thiền Sư Pháp Loa làm rất nhiều việc xây dựng. Tại chùa Bảo Ân, năm 1314 ông đã xây dựng được 5 cây Bảo Thập, hai cơ sở hành đạo lớn (Quảng Lâm và Bảo Ân) và trên 200 tòa đường. Về việc đúc tượng, Thiền Sư Pháp Loa đã đúc tới 1.300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng.

Vua Anh Tông nhân ngày lên làm Thái Thượng Hoàng đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật Dược Sư, Thích Ca và Di Lặc, mỗi tượng cao 17 thước ta. Có thể nói là bất động sản cũng vào cho giáo hội, phần lớn là những người có quyền thế và giàu có trong triều. Năm 1308, vua Anh Tông đã lấy 100 mẫu ruộng riêng của gia đình nhà Trần để cúng vào chùa Bảo Ân. Năm 1312 Anh Tông cúng dương năm vạn quan tiền để Thiền Sư Pháp Loa bỏ thí cho dân nghèo. Vua cũng dâng cúng thuyền bè và kiếu phu cho chùa dùng, nhưng Thiền Sư Pháp Loa từ chối không nhận.

Vua lại sai lấy 500 mẫu ruộng từ Niệm Như Trang cúng vào chùa làm bất động sản. Năm 1313, Anh Tông lại theo lời di chiếu của Nhân Tông lấy những bảo vật thế tứ tam bảo của mẹ mình cúng dương vào chùa Bảo Ân, lại cũng dương vật liệu xây dựng và cung cấp thợ phục để làm thêm chùa thập. Cũng trong năm ấy, Bảo Tử Hoàng Thái Hậu đã quy y tại chùa này. Năm 1315, Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng của người cung nhân cơ hộ Phạm cúng vào chùa. Những sự cúng dương này cho thấy giáo hội Trúc Lâm dưới lãnh đạo Pháp Loa đã nhận được sự ủng hộ rất lớn từ nhà nước và các tầng lớp xã hội.

Trong thời gian Thiền Sư Pháp Loa hành đạo, ngoài sự giảng dạy các kinh phổ thông như Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác, ông còn giảng các bộ lục như Tuyệt Đầu Ngữ Lục, Tú Trung Thượng Sơ Ngữ Lục, Đại Tú Ngữ Lục, Pháp Hoa và nhất là Hoa Nghiêm. Thiền học vào thời đại này đã mang nặng tính chất học hỏi và đầm thuyết. Việc học kinh Hoa Nghiêm đã trở nên một phong trào trong thiền giới. Thiền Sư Pháp Loa đã giảng Hoa Nghiêm nhiều lần tại các chùa và địa điểm khác nhau, mỗi buổi giảng đều thu hút hàng trăm đến hàng nghìn người nghe. Nhờ có bản gốc tăng trú tại chùa Bảo Ân nên kinh sách được ấn hành rộng rãi, cung cấp đầy đủ cho nhu yếu học Phật khắp xứ.

Yếu Tố Mật Giáo Trở Thành Quan Trọng

Ở Trung Hoa lúc bấy giờ, nhà Nguyên đang trị vì có khuynh hướng ủng hộ Mật Giáo. Đại Tạng Kinh chùa Phổ Ninh chắc chắn chịu ảnh hưởng nhiều về Mật Giáo, nghĩa là có thêm nhiều kinh bản về hệ thống giáo lý thần bí này. Phật Giáo đầu đời Trần đã không bị ảnh hưởng của Mật Giáo nhiều như ở đời Lý. Thiền học trong thời đại của Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông tuy có thiên về sự học hỏi và có khuynh hướng văn chương, nhưng về ảnh hưởng Mật Tông đã nhỏ. Bắt đầu từ đời Anh Tông và Pháp Loa, ảnh hưởng này trở thành năng nổ trở lại.

Năm 1318, vua Anh Tông xuống chiếu tìm vị tăng sơ Ấn Độ tên là Ban Ô Ô Sa Thật Lợi về dịch một cuốn kinh Mật Giáo tên là Bạch Tán Thần Chú Kinh. Pháp Loa để rất nhiều thì giờ vào việc trì chú (Tam Tổ Thực Lục nói: Sư thường ngày đêm trì chú lơn Phật). Ông cũng có phân tích và chú thích một kinh văn có khuynh hướng Mật Giáo gọi là Kim Cương Trường Ô Nia Khoa Chú.

Năm 1311, có một vị tăng sơ Ấn Độ tên Du Chi Ba Lam tới, xưng là 300 tuổi, theo Mật Giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi lên mặt nước. Vị tăng này có một cô con gái tên là Ô La Thanh, được vua Anh Tông tuyên vào làm cung phi. Và vào đời vua Minh Tông cũng có một vị tăng Mật Giáo Ấn Độ tên là Bồ Ô Thật Lý Thánh sang, cũng có thể nổi lên mặt nước. Vua Anh Tông có vẻ ưa chuộng Mật Giáo. Vua được Thiền Sư Pháp Loa làm lơn quán đề định năm 1320 trước khi bằng. Nhiều người khác như Văn Huyễn Vương và Uy Huyễn Vương cũng đã xin nhận lơn quán đề định, một nghi thức Mật Giáo.

Vua Anh Tông và Thiền Sư Pháp Loa

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng ngày Vua Anh Tông ốm nặng sắp bằng, Bảo Tử Hoàng Thái Hậu cho người đi mời Phó Tú Tôn Giả tới làm phép quán đề định và lập đàn chay cầu nguyện. “Vua Anh Tông bệnh nặng. Phó Tú xin vào để tự bày sự sống chết. Anh Tông sai trả lời rằng: nhà sư hãy ở đây, khi ta chết rồi, quan gia (tức là vua Minh Tông) có sai làm thế nào thì nhà sư tự làm, còn như việc sau thì nhà sư cũng chưa chết, biết đâu mà đem việc chết bày tự với ta”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như vậy, sợ là lạm. Anh Tông đối với Pháp Loa thường cung kính xưng là đệ tử. Sau khi thọ tại gia Bồ Tát Giới, Anh Tông rất tháo thục muốn làm trọn bốn phần của một ông vua hộ pháp.

Năm 1311, Anh Tông giao cho Thiền Sư Pháp Loa trách nhiệm tục san Đại Tạng Kinh, một công trình Phật sự lớn lao mà nếu nhà nước không tích cực ủng hộ thì giáo hội Trúc Lâm ít có cơ thực hiện nơi này. Anh Tông cũng đã từng thỉnh mời Pháp Loa vào cung Tứ Phúc giảng Đại Tú Ngữ Lục (1312) và vào cung Thiên Trường để giảng Truyền Đặng Lục (1318). Anh Tông cũng đã chuẩn bị để xuất gia nhưng chưa kịp thi hành thì lâm bệnh.

Năm 1318 vua đã bắt đầu ăn chay. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Bây giờ Thượng Hoàng có ý muốn xuất gia, bảo cung nhân ăn chay. Cung nhân có người ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diễn chắt ngón tay đem dâng. Thượng Hoàng ngội khen, ban cho 40 mẫu ruộng để làm lương ăn tu hành sau này. Sau Nguyễn Thị Diễn quả nhiên xuất gia hiệu là ni sư Tĩnh Quang”. Những chi tiết trên cho biết là Anh Tông thực tâm tin đạo Phật và rất quý trọng Pháp Loa.

Tư Tưởng Thiền Học của Thiền Sư Pháp Loa

Như trước đã nói, những tác phẩm của Thiền Sư Pháp Loa để lại ngày nay không còn, duy chỉ có một phần của sách Tham Thiền Yếu Chỉ còn giữ lại dưới nhan đề Thiền Đạo Yếu Học, in trong sách Tam Tổ Thực Lục ngay sau phần nói về đời Thiền Sư Pháp Loa. Thiền Đạo Yếu Học có lẽ đã được ghép vào trong sách Tam Tổ Thực Lục trong một bản tương đối gần đây. Xét nội dung và nhất là lời ghi chú phía sau, ta có thể nói Thiền Đạo Yếu Học là chính do Thiền Sư Pháp Loa viết.

Trong lời khuyến lệ kệ xuất gia tinh tấn hành đạo, Thiền Sư Pháp Loa có nói về việc tìm thấy học đạo, phân biệt chân ngụy và thiện ác. Tư tưởng của Pháp Loa về thiền học tập trung vào vấn đề kiến tính—thấy được bản tính của chính mình. Ông đặt vấn đề kiến tính lên hàng đầu, vì theo truyền thống Tú Trung, ông hiểu rằng người học Phật phải chú trọng trước hết đến vấn đề kiến tính.

Pháp Loa còn chỉ bảy phương pháp thực tiễn nhiệp tâm giữ ý (gọi là tĩnh giới) một cách rõ ràng. Ông nhấn mạnh rằng để đạt được tâm bất động, cần phải duy trì tĩnh giới trong suốt 24 tiếng một ngày, không để bất cứ gì xúc động tâm thức. Đây là nền tảng để sau đó mới có thể tập thiền định, buông xả cả thân và tâm cùng một lúc.

Thiền Sư Pháp Loa cũng có rất đông đệ tử. Trong số trên 15.000 người xuất gia trong các giới độ của giáo hội Trúc Lâm tự chức, có tới hơn 3.000 vị tới cầu pháp và đắc pháp với ông. Những vị đệ tử làm giảng sư nổi danh là Tú Nhiên, Tú Chúc, Hải Ấn, Hoàng Tế và Huyền Giác. Ngoài ra các vị đệ tử xuất sắc khác là Quế Đường, Cảnh Ngung, Cảnh Huy và Tú Quán. Huyền Quang là đệ tử xuất gia với Bảo Phác, có học với Trúc Lâm nhưng cũng cầu pháp với Thiền Sư Pháp Loa.

Thiền Sư Pháp Loa bị bệnh tại An Lạc Tạng

Related posts

Bóng Người Trong Gương Báu: Bài Học Về Vô Thường Và Nhân Quả

Administrator

Nhân Quả Thiện Ác: Nên Giúp Người Trong Hoàn Cảnh Khó Khăn

Administrator

Niết-Bàn trong Tư Tưởng Phật Giáo: Giải Thoát Tuyệt Đối hay Chuyển Hóa Tâm Thức?

Administrator