Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Lục Tổ Huệ Nang Là Người Việt Nam: Khai Phá Nguồn Gốc Của Thiền Phái

Nhu cầu vô hình và siêu hình của tâm hồn phải cần nương tựa vào một hình tượng nhất định để rồi siêu hóa và chuyển hóa tất cả những hình tượng. Chính ngay đương thời với Ngài Huệ Nang, theo truyền thuyết, có đề tử tác tượng Ngài, nhưng chính Ngài Huệ Nang ngó tượng và mỉm cười: “Người chỉ có tài năng hình mà chẳng hiểu được tính Phật”. Phát biểu này thể hiện tinh thần vô tướng sâu sắc của Thiền học—một bài học trường tồn đối với những người tu hành Phật pháp.

Phát Hiện Lịch Sử Về Ngài Huệ Nang Từ Đông Dunhuang

Bản Pháp Bảo Đàn Kinh Xưa Nhất

Nguyên bản Pháp Bảo Đàn Kinh tôi dịch ở đây là bản mới tìm được từ Đông Dunhuang, vùng sa mạc Tân Cương, miền Trung Á. Bản này đã được viết ra vào khoảng năm 830 và trước nhất là năm 860 (theo sự giáo nghiêm lời viết chữ thảo ở thời đó, do một chuyên viên danh tiếng, Giáo sư Akira Fujieda của Đại học Tokyo). Đây là bản Pháp Bảo Đàn xưa nhất của thế giới hiện nay. Trước đây, ở Việt Nam tôi được biết ít nhất có ba bản dịch Việt của ba dịch giả (Hòa Thương Thích Minh Trực, ông Đoàn Trung Côn và ông Tô Quế), nhưng cả ba bản dịch này đều dựa theo bản chữ Hán Pháp Bảo Đàn Kinh được viết vào thế kỷ thứ XIII (năm 1291), gọi là bản Tông Bảo; bản này không khác lắm với bản Đức Dị được in vào năm 1290 tại Nam Hải.

Bản Pháp Bảo Đàn Kinh được thông dụng nhất hiện nay ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chính là bản Tông Bảo được viết vào năm 1291 và được in trong đại Tạng Kinh ở đời Minh. Ngoài những bản vừa kể, ít nhất chúng ta được biết có gần mười bản Pháp Bảo Đàn Kinh khác nhau, ngoài bản xưa nhất tìm lại được ở Đông Dunhuang, viết vào khoảng những năm 830-860, những bản khác là bản Huệ Hàn (năm 967), bản Thiểu Hồi (năm 1013), bản Tôn Trung (năm 1116), bản Bắc Tông (năm 1153).

Bộ sưu tập các bản Pháp Bảo Đàn Kinh lịch sử qua các thế kỷBộ sưu tập các bản Pháp Bảo Đàn Kinh lịch sử qua các thế kỷ

Vai Trò Của Bản Dunhuang Trong Nghiên Cứu Thiền Học

Tất cả những bản Pháp Bảo Đàn Kinh khác nhau đều xuất phát từ bản duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đông Dunhuang (830-860) mà tôi dịch ở đây. Bản Đông Dunhuang là bản ngắn gọn nhất và chỉ gồm có mười hai ngàn chữ; bản Hương Thánh Tư gồm có mười bốn ngàn chữ; còn những bản khác (bản đời Nguyên và đời Minh) gồm khoảng hai mươi mốt ngàn chữ.

Bản chữ Hán tôi dịch ở đây được dựa theo bản chữ Hán đã được san định kỹ lưỡng do công phu uyên bác của Giáo sư Philip B. Yampolsky của Đại học Columbia. Trong phần mở đầu của cuốn sách, giáo sư uyên bác Yampolsky đã cống hiến cho độc giả những dự kiện lịch sử rõ rệt về sự thành hình của Thiền tông, căn cứ theo những tài liệu được khai quật từ Đông Dunhuang. Giáo sư chịu khó tham khảo hàng ngàn thiên khảo cứu Trung Hoa và Nhật Bản, cho độc giả nhìn thấy lại sự diễn biến của Thiền Tông tại Trung Hoa từ những thế kỷ thứ VI, VII, VIII và IX.

Tranh vẽ Ngài Huệ Nang thời Đường, thể hiện đặc điểm người Việt NamTranh vẽ Ngài Huệ Nang thời Đường, thể hiện đặc điểm người Việt Nam

Lục Tổ Huệ Nang Là Người Việt Nam

Chứng Cứ Lịch Sử Không Thể Chối Cãi

Chúng ta cần phải thành kính thẻ lấy tất cả những hình ảnh về Ngài do những thế hệ đã qua để lại, vì tất cả những di ảnh ấy đều là những biểu tượng cần thiết hữu hình về Ngài. Chúng ta phải cần có những biểu tượng hữu hình để thẻ lấy, vì cơ cấu tâm thức của chúng ta cần phải nương tựa thành kính vào một hình tượng cụ thể để mới có khả năng vượt qua hình tượng. Chính ngay đương thời với Ngài Huệ Nang, theo truyền thuyết, có đề tử tác tượng Ngài, nhưng chính Ngài Huệ Nang ngó tượng và mỉm cười: “Người chỉ có tài năng hình mà chẳng hiểu được tính Phật”.

Dù đây chỉ là đoạn văn do người sau thêm vào bản Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn Kinh nhưng vẫn nói lên được cụ thể cái tinh thần Vô Tướng của nguyên ngữ khí của Huệ Nang. Chúng ta thường hình dung nét mặt của Ngài Huệ Nang là nét mặt hiện hậu của một cụ già nhưng chúng ta đã quên rằng Huệ Nang đã từng rất trẻ và chính tuổi trẻ của Huệ Nang đã quyết định hết tất cả sự nghiệp tâm linh và vĩ đại của Huệ Nang. Ba điều cần nhấn mạnh về tuổi trẻ của Ngài Huệ Nang:

Thứ nhất: Huệ Nang đã đắc đạo về lúc mới nghe người tụng kinh Kim Cang trước khi Ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoàng Nhân.

Thứ hai: Huệ Nang là một thanh niên đầy tự tin, hành động vô lễ phạm theo tiêu chuẩn lễ nghi của tông môn. Khi vừa gặp Ngũ Tổ Hoàng Nhân lần đầu tiên, Huệ Nang đã dám đối đáp những câu hỏi of của Ngài không sợ hãi, điều này vô cùng bất thường đối với một thiên niên ngoại quốc mới đến.

Thứ ba: Huệ Nang không được Hoàng Nhân dạy đạo gì cả và chỉ ở chùa với Ngũ Tổ có tám tháng mà thôi. Ngũ Tổ Hoàng Nhân chỉ giữ vai trò danh dự là ấn chứng cho Huệ Nang, vì thế Ngũ Tổ mới lén lút kêu gọi Huệ Nang đêm khuya vào gặp riêng để Ngài trao dạy một thời kinh Kim Cang gọi là lấy lẽ thôi. Sau đó, Ngũ Tổ âm thầm lên từng đưa tiền Huệ Nang đến trạm Cầu Giang, và đuổi khéo Huệ Nang trở về rừng rú Việt Nam, không dám giữ lại ở đất Tàu nữa.

Tuổi Trẻ Quyết Định Sự Nghiệp Thiền Học

Từ ba điều cần nhấn mạnh trên, bây giờ chúng ta thử hình dung người thanh niên Huệ Nang. Chúng ta thử hình dung cách đây trên mười ba thế kỷ, lúc đó tại vùng miền Bắc nước Việt Nam, quanh quấn Đó đó thuộc vùng thường du Bắc Việt, có một đứa con nít Việt Nam ra đời khoảng năm 638. Lúc đó nước Việt Nam đã mất chủ quyền độc lập, gọi là thời Bắc thuộc lần thứ ba, vào thời nhà Đường (cuộc Bắc thuộc dã man này kéo dài từ năm 603 cho đến năm 939).

Tất cả những gì huy hoàng nhất của Việt Nam trong giai đoạn ấy đều bị Tàu đông hoá sát nhập vào sở hữu của họ. Phật giáo Việt Nam lúc ấy rất huy hoàng và có nhiều vị sư Việt Nam đã được triều thành vào triều đình Tàu để dạy đạo Phật cho vua quan Tàu học. Việt Nam đã từng chịu ảnh hưởng mạnh về hình thức Phật giáo Tàu nhưng ngược lại Việt Nam đã ảnh hưởng lại Tàu rất mạnh liệt mà ít ai biết đến.

Bằng Chứng Từ Kinh Điển Phật Giáo

Những nhà học giả Tàu rất hành diễn về Ngài Huệ Nang và cho rằng ít nhất Ngài ngang hàng với Lão Tử, Khổng Tử, Trang Tử và Mạnh Tử. Chẳng hạn như Giáo sư John C. H. Wu, Viện trưởng Viện Đại học Văn Hóa Trung Hoa ở Đài Loan, hành diễn quá quyết như vậy: “Huệ Nang nhất định là một trong những thiên tài cao lớn nhất, vĩ đại nhất mà đất Tàu đã sinh sản ra. Huệ Nang đứng chung ngang hàng với Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử và Trang Tử”.

Láy lâu sau đây, chúng ta sẽ thấy rằng Huệ Nang là người Việt Nam và điều này đã được chứng minh dứt khoát rõ rệt trong tất cả những bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn Kinh, dù cho những đời sau có ý định thêm bớt che giấu sự thật thì tất cả những bản kinh khác đều còn giữ lại những câu quyết định nhất để nói lên sự thực lịch sử quyết định trầm trọng rằng Ngài Lục Tổ Huệ Nang là người Việt Nam. Dù tất cả di bản, bia kỷ, tài liệu, văn thư, sách vở của Trung Hoa còn để lại đều để lại cảm tưởng sai lầm rằng Huệ Nang là người Tàu, nhưng chính đồng thời tất cả những tài liệu lịch sử còn giữ lại đó đã giúp đơi đưa ta đi đến những kết luận nghịch hướng và không thể chối cãi được rằng Ngài Huệ Nang là một người Việt Nam.

Quyết Định Lịch Sử Của Một Đạo Sư Việt Nam

Trước khi đi đến những dự kiện tài liệu lịch sử để chứng minh Huệ Nang là người Việt Nam, tôi xin cụ thể gọi lại ở đây cho ta thấy “bản lai diễn mục” của Ngài Huệ Nang qua cái nhìn của tôi từ những dự kiện rõ rệt có thể thấy được dưới những luông ánh sáng khác, chiếu rối trên con đường cổ độc của một đạo sư Việt Nam cách đây trên mười ba thế kỷ.

Sự sai lầm lớn nhất là mỗi khi ta nhắc tới ngài Huệ Nang thì lập tức chúng ta hình dung rằng Ngài có hình dáng một cụ Hòa Thương già nua, mưỡng tưởng như những hình ảnh ta nhìn thấy trong sách về Tàu. Tất cả những hình ảnh của Ngài và ngay cả hình ảnh chụp nhục thân của Ngài đều là những hình ảnh do những đời sau ngày tạo. Chúng ta cần phải thành kính thẻ lấy tất cả những hình ảnh vì tất cả những di ảnh ấy đều là những biểu tượng cần thiết hữu hình về Ngài, chúng ta phải cần có những biểu tượng hữu hình để thẻ lấy, vì cơ cấu tâm thức của chúng ta cần phải nương tựa thành kính vào một hình tượng cụ thể để mới có khả năng vượt qua hình tượng, chứ không thì dễ rơi vào chủ nghĩa hư vô.

Chứng Cứ Từ Các Bản Kinh Khác Nhau

Tất cả những bản Pháp Bảo Đàn Kinh khác nhau đều xuất phát từ bản duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đông Dunhuang (830-860). Bản Đông Dunhuang là bản ngắn gọn nhất. Những bản khác được viết vào những đời sau và có sự điều chỉnh khác nhau, nhưng tất cả vẫn giữ lại những chứng cứ quan trọng nhất về lai lịch của Huệ Nang. Dù Hoàng Nhân máy mắng Huệ Nang: “Mi là dân Lĩnh Nam, vốn là đệ môi rể, làm thế nào thành Phật được?”, nhưng chính những lời này đã khẳng định rõ ràng nguồn gốc Việt Nam của Ngài.

Một điểm khác không nên quên, đó là lần đầu tiên và có thể là lần cuối cùng được nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa mà ngôi vị Tổ Sư của một tông pháp lớn nhất của Phật giáo lại được trao truyền cho một người ngoại quốc còn rất trẻ tuổi và chưa thụ giới xuất gia gì cả. Chúng ta phải tán thán công đức siêu phàm của Ngũ Tổ Hoàng Nhân ở đây: Hòa Thương đã nhìn nhận ra tất cả vĩ đại phi thường của một anh con nít, chưa đầy 23 tuổi, lại thuộc giống người “môi rề”, chưa xuất gia; và Hòa Thương khéo léo kín đạo trao truyền tất cả trách nhiệm tâm linh nặng nề nhất của đạo pháp, khéo léo khuyên Huệ Nang lui trở về Việt Nam và trốn tránh ở Việt Nam, chứ đừng ra mặt xuất hiện ở đất Tàu nữa. Huệ Nang đã nghe lời dạy của Ngũ Tổ và đã mất dáng ở đất Tàu trong vòng mười bảy năm.

Ảnh Hưởng Sâu Rộng Của Thiền Học Huệ Nang

Ngài Huệ Nang thuyết pháp trên ba mươi mấy năm trời chung quanh vùng Quảng Đông và vùng biên giới Tàu-Việt và cả nước Tàu lúc ấy không ai biết đến tên tuổi Ngài cả, lúc ấy Thần Tú được trọng dài ở triều đình Tàu và được chính thức coi như Lục Tổ của Đông Sơn Pháp Môn (lúc đó chưa có phân biệt “Bắc Tú, Nam Nang” như ta thấy trong bản Đông Dunhuang và những hậu bản Pháp Bảo Đàn Kinh).

Danh tiếng uy thế của Thần Tú và đệ tử Phá Tỳ lầy lùng vang dội và được vua Tàu coi như Quốc sư, đang khi ấy Ngài Huệ Nang chỉ là một ông đạo sư “môi rề” tợi tâm ở biên cương, chỉ có được một số môn đệ Tàu trung thành sùng bái, trong số đó có một người tên là Thần Hùi. Chính Thần Hùi sau này là người đã khôi phục lại ngôi vị Tổ Sư Thứ Sáu cho Huệ Nang và trao truyền đạo lý Đông Ngộ Bát Nhã của Huệ Nang và đây là lùi tất cả những trường phái Thiền tông khác đi vào bóng tối của lịch sử.

Tất cả tư tưởng đạo lý của Thần Hùi đều được rút ra trực tiếp từ Huệ Nang. Vai trò quyết định của Thần Hùi đối với lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa và Nhật Bản chỉ mới được Hộ Thích khám phá ra từ những tài liệu đào ra được ở Đông Dunhuang, lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Tác phẩm của Thiền sư Thần Hùi đã thất lạc từ lâu ở Tàu và Nhật Bản, chỉ nhờ Hộ Thích khám phá ra ở thư loại Pelliot tại Paris mà lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa đã được viết lại hết, không những tài liệu của Hộ Thích thôi mà còn bao nhiêu tài liệu khác từ Đông Dunhuang đã giúp các học giả Nhật và Tây phương thấy rằng sự thực lịch sử về sự thành hình của Thiền tông khác với những tài liệu lịch sử Phật giáo Trung Hoa như chúng ta tưng quen biết từ lâu.

Những gì chúng ta biết được về những Tổ sư Tàu từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Nang đều do những truyền thuyết ngày tạo ở những thế hệ sau. Tất cả những sử gia Tàu và ngoại quốc muốn viết gì về Huệ Nang đều lấy tài liệu chứng minh từ bộ Toàn Đường Văn. Theo giáo sư Yampolsky thì “bộ sách Toàn Đường Văn được biên soạn vào năm 1814 và sử dụng tập nhập tất cả những tài liệu một cách bừa bãi, và nhiều tài liệu đã được viết ra sau này và rất gần đây, thành ra không thể tin vào giá trị của những tài liệu ấy”. Sau khi đã khảo xét rất kỹ lưỡng tất cả tài liệu liên quan đến Huệ Nang trong bộ Toàn Đường Văn, Yampolsky phải đi đến kết luận rằng tất cả đều là ngày tạo.

Theo Yampolsky chỉ có hai tài liệu đáng tin cậy: thứ nhất là Lăng Già Sư Tư Kỷ (khai quật ở Đông Dunhuang), và tài liệu này chỉ nhắc đến tên Huệ Nang như là một trong mười học trò của Hoàng Nhân, chỉ thế thôi và không có ghi chép sự kiện gì khác; tài liệu thứ hai là bia kỷ của thị hào Vương Duy vào khoảng năm 740.

Kết Luận Từ Những Chứng Cứ Lịch Sử

Dựa vào tất cả những dự kiện kiểm chứng được, chúng ta chỉ có thể có những kết luận sau đây:

  • Huệ Nang là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam.
  • Lĩnh Nam là đất Việt Nam (ngày xưa Lương Quảng, Quảng Đông và Quảng Tây cũng thuộc về Việt Nam). Chính ngay cả Yampolsky cũng chú thích rõ: “Ling-nan indicates the areas of Kwangtung, Kwangsi, and Northern Indochina”.
  • Địa danh Nam Hải ghi trong tất cả những bản Pháp Bảo Đàn Kinh thì theo Yampolsky đó là Phiên Ngung, tức là thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày xưa.

Ngoài ra còn có một điểm đáng lưu ý mà Yampolsky đã nêu ra: Bài thuyết pháp quan trọng nhất của Huệ Nang là ở chùa Đại Phạm. Nhưng theo Yampolsky thì, không ai có thể truy tìm cho ra chùa Đại Phạm ở đâu, chỉ biết chùa ấy còn có tên là chùa Bảo Ân. Nơi xảy ra bài thuyết pháp quan trọng nhất của Huệ Nang—nội dung quan trọng nhất của tất cả các bản Pháp Bảo Đàn Kinh—mà không có học giả nào truy ra được địa điểm đích xác, đang khi đó, một sự kiện lạ lùng là chúng ta đã thấy cái tên chùa Bảo Ân rất nhiều lần trong quyển Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang.

Điều lạ lùng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: Trong Thiền phái Tứ Ni Đại Lữ Chi có hai tên khuyết lục vào thế hệ thứ năm và thế hệ thứ sáu, vào thế kỷ thứ VII và thế kỷ thứ VIII, đồng thời với Huệ Nang và Thần Hùi. Chúng ta cần phải suy gẫm về những bí ẩn này, vì chúng liên quan trực tiếp đến sự kế thừa và phát triển của truyền thống Phật giáo Việt Nam—một truyền thống mà dân tộc ta đã quên mất.

Mặc dù những chứng cứ lịch sử không đủ để khẳng định tất cả chi tiết, nhưng các dữ kiện cơ bản cho thấy rõ: Huệ Nang là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam, và là một trong những thiên tài vĩ đại nhất mà nhân loại từng sản sinh ra. Sự thực lịch sử này không thể chối cãi được, dù những thế hệ sau có tìm cách che giấu hay sửa đổi.

Related posts

Công Cuộc Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ và Đóng Góp của Phật Giáo Việt Nam

Administrator

Báo Ứng Hiện Đời: Thiện Niệm và Ác Niệm

Administrator

Câu Chuyện Tu Học Phật Pháp: Bài Học Về Đúng Pháp Và Sai Lạc

Administrator