Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Bồ Đề Đạt Ma Và Những Công Án Thiền

Bồ Đề Đạt Ma (346 hoặc 495 – 536) là vị tổ sư thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ và sơ tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Ông là hoàng tử thứ 3 của vua Hương Chí, là đệ tử của Bát Nhã Đa La Tôn Giả. Từng gặp vua Lương Võ Đế nhưng vua không khế hợi, ông vượt sông Trường Giang sang Bắc Ngụy, đến ngụ ở chùa Thiếu Lâm. Sau đó, ông truyền pháp cho sư Huệ Kế. Theo sử sách, ông mất vào ngày mồng 5 tháng 10 năm Thái Hòa thứ 19 (495), thọ 150 tuổi. Những công án thiền liên quan đến vị tổ này không chỉ phản ánh sâu sắc giáo pháp Thiền Tông mà còn là lối dẫn dắt thực hành tu tập cho các Phật tử cho đến ngày nay.

Công Án Thiền Là Gì?

Công án (công-ấn) nguyên nghĩa là một ấn công khai, quyết định phải trải trong quan phủ. Trong Thiền Tông, thuật ngữ quan trọng này chỉ một phương pháp tu tập thiền định đặc biệt. Công án có thể là một đoạn kinh, một kinh nghiệm giác ngộ, một câu chuyện về một vị sư, một cuộc đàm thoại, văn đáp hay một cuộc pháp chiến. Đây là phương tiện khéo léo để đánh thức tâm linh, xé tan màn vô minh của những ai đang mù quáng trước sự thật tối thượng.

Bồ Đề Đạt Ma - sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa ngồi tịnh tâm trong chùaBồ Đề Đạt Ma – sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa ngồi tịnh tâm trong chùa

Công án không phải là những bài toán sáng suốt có thể giải quyết bằng lý luận thông thường. Chúng vô dụng với trí tuệ phân biệt, thậm chí trở thành chướng ngại khi người tu tập cố gắng suy diễn từ các từ ngữ. Thực chất, công án là một tiếp cận trực tiếp với tự tính – bản chất Phật của chúng ta mà không cần phải trải qua bộ lọc tư duy. Trong quá trình vật lộn với công án, tâm linh bị buộc phải vượt qua ranh giới của lý luận để chạm tới điều gì đó sâu sắc hơn.

Tổ Bát Nhã Đa La Và Những Công Án Thiền

Tổ Bát Nhã Đa La là tổ thứ 27 của Thiền Tông Ấn Độ. Ông là sư phụ của Bồ Đề Đạt Ma, nhưng nam sinh nữ mất của ông không rõ ràng trong lịch sử. Các công án liên quan đến ông được liệt kê như sau.

Tiếp Xúc Với Kinh Nghiệm Vô Tướng

Tổ Bát Nhã Đa La (tổ 26) hỏi ông: “Ông còn nhớ chuyện quá khứ không?” Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Dạ có! Con nhớ nhiều kiếp trước đã ở chung với thầy. Thầy có giảng kinh Ma Ha Bát Nhã, con thì giảng kinh Thâm Thâm Tu Đa La. Việc gặp gỡ này là do tục duyên lực trước.”

Công án này đề cập đến thời gian một cách tinh tế. Keizan, một danh sư Thiền Tông, đã bình luận: “Hôm nay thầy là thầy từ vĩnh cửu, nếu ông nhìn lại vĩnh cửu thì thầy hôm nay. Khi chúng ta đạt tới cảnh giới này thì không có quá khứ, hiện tại, tương lai. Pháp vượt thời gian. Hiện tại chứa cả 3 thời.” Trong cảnh giới Niết Bàn, thời gian không còn là chiều kích tính toán được, tất cả những gì xảy ra đều tồn tại trong một khoảnh khắc vĩnh hằng của tự tính.

Quốc vương Đông Ấn Độ thiết trai cung dưỡng Bát Nhã Đa La, quốc vương hỏi: “Thầy vì sao không tụng kinh?” Bát Nhã Đa La trả lời: “Bọn đạo thể vào không ở trong âm giới, thế ra chẳng tiếp chứng duyên, tùy thời tụng thử kinh này, trăm ngàn vạn ước quyền.”

Âm giới chỉ ngũ âm (sắc, thọ, tưởng hành, thức) và 12 xứ, 18 giới. Câu này nói rằng nếu vì thợ trai mà phải tụng kinh thì chẳng phải là bị trói buộc sao? Cứ theo tâm không bị tập quán ô nhiễm mà hành động tùy thời thì đó là tụng kinh thực sự. Hành động trong cãnh giới Niết Bàn không cần sự ràng buộc bên ngoài.

Câu Hỏi Về Vô Tướng Và Pháp Tính

Tổ Bát Nhã Đa La hỏi Bồ Đề Đạt Ma: “Ông có biết trong mọi vật, vật nào là vô tướng?” Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Ở trong mọi vật, không khởi một niệm là vô tướng.” Tiếp tục, Bát Nhã Đa La hỏi: “Ở trong mọi vật, vật nào là lớn nhất?” Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Ở trong mọi vật, pháp tính là lớn nhất.”

Tâm điểm của công án này là thực tại. Bát Nhã Đa La tự kiểm tra sự hiểu biết của Bồ Đề Đạt Ma bằng hai câu hỏi về thực tại. Bồ Đề Đạt Ma trả lời là không khởi một niệm và pháp tính. Kết hợp hai ý này là có thực tại đúng nghĩa – một thực tại không bị tư duy phân biệt làm cơm cháy, không bị khái niệm che phủ.

Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta biết cả vũ trụ nằm trên đầu một sợi lông. Thực tại là bây giờ, là lúc này, là lá bay, là tiếng chim hót, là dòng suối chảy. Chúng ta biết thực tại trong xương tủy ta. Đây là sự hiểu biết trực tiếp, không qua lớp màng suy luận. Khi tinh thần ta chuyên chú vào hiện tại, khi ta thực sự nhận thức được sự tồn tại của tất cả những gì xung quanh, ta đã chạm vào pháp tính – cái tính của tất cả mọi pháp.

Cuộc Đối Thoại Với Vua Lương Võ Đế

Vua Lương Võ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma: “Từ khi trèn lên ngôi, ta lập nhiều chùa chiến, in nhiều kinh sách, cấp dưỡng tăng ni, vậy có công đức gì không?”

Bồ Đề Đạt Ma trả lời thẳng thắn: “Không.”

Vua Lương hỏi tiếp: “Tại sao không?”

“Vì những việc bề hạ làm đó chỉ là quả báo nhỏ của thế tục, không phải là chân công đức. Chân công đức là trí tuệ toàn mãn, tâm dung thông; bản thể của nó là không tích, bề hạ không thể dùng phương pháp thế tục mà đạt được.”

Vua Lương lại hỏi: “Vậy thế nào là thành?”

Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Là hoàn toàn không, trong cái thế giới này không đó, không có gì là thành cả.”

Vua Lương ngạc nhiên: “Không có thành sao, vậy người là ai?”

Bồ Đề Đạt Ma nói: “Không biết.”

Cánh giới được bình luận trong công án này cực kỳ lý thú. Vua Lương Võ Đế hỏi là hỏi nghĩa của chân đế. Bồ Đề Đạt Ma đáp là tự chứng cảnh giới, vượt lên cả chân, tục nhị đế, là cảnh giới Niết Bàn tuyệt đối. Do đó, vua Lương không hiểu cũng chẳng có gì là lạ, vì trong cảnh giới “Chẳng có thành gì cả” vượt ngoài tất cả phẩm thánh, mê ngộ, phải trái, được mất là cảnh giới tự tại vô ngại. Do đó, căn bản của Thiền là truyền ngoài giáo lý, không thể dùng lời mà giảng cho hiểu thế nào là Thánh Đế được.

Ý Tổ Sư Từ Tây Sang Là Gì?

“Ý tổ sư từ Tây sang” là một trong những công án phổ biến nhất trong Thiền Tông. Câu hỏi này được liệt kê là phổ biến, lần đầu tiên một con chim sáo bị nhốt trong lồng đất đặt ra khi thấy tổ Bồ Đề Đạt Ma đi qua. Con chim sáo hót:

“Ơi! Ý tổ sư từ Tây sang. Xin chỉ một kế thoát lồng được chẳng?”

Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Từ Tây sang, tổ chỉ rằng im hơi, nên tiếng biết chẳng, sáo khổ?”

Con chim sáo hiểu ý tổ, giả vờ nằm im không cử quanh như đã chết. Chủ nhân mở lồng mang chim ra coi, chim thừa cơ với cánh bay mất. Từ đây, nhiều công án phổ biến nhất liên quan đến câu nói này được hình thành.

Những Công Án Về “Ý Tổ Sư Từ Tây Sang”

Công Án Thứ Nhất: Một ông tăng hỏi Đức Sơn: “Đạt Ma tổ sư chưa qua Trung thơ, Trung thơ có ý tổ sư chẳng?”

Đức Sơn trả lời: “Có.”

“Nếu có, sao còn qua?”

“Vì có nên mới qua.”

Ý tổ sư chỉ tự tính, không đâu không có. Câu trả lời này chỉ ra rằng ý tổ sư (tự tính) không giới hạn bởi không gian hay thời gian. Bồ Đề Đạt Ma qua hay không qua chỉ là những hiện tượng trên bề mặt. Cái chân chất là tự tính được truyền từ tâm tới tâm, không cần thân thể vật lý phải đi qua đâu.

Công Án Thứ Hai: Một ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn: “Thế nào là ý tổ sư?”

Ngưỡng Sơn vẽ một vòng tròn, ở trong viết chữ “Phật”. Ông tăng không nói được một lời nào.

Ý tổ sư là ý chỉ của tổ Đạt Ma vượt biển tới Trung thơ. Ý chỉ này thực là tinh túy của thiền – “Chỉ thấy tâm người, thấy tính thành Phật”. Ngưỡng Sơn dùng vòng tròn và chữ Phật để khai ngộ cho ông tăng. Nếu ông tăng chấp vào vòng tròn và chữ Phật, dùng đường lối suy luận mà tìm nghĩa thì vĩnh viễn không khai ngộ được. Vòng tròn biểu thị không, viên mãn; chữ Phật biểu thị có, cụ thể. Cái được là khai ngộ là hiểu được sự thống nhất của không và có.

Công Án Thứ Ba: Một ông tăng hỏi Đại Mai: “Thế nào là ý của tổ sư từ Tây sang?”

Đại Mai trả lời: “Tây sang không ý.”

Câu hỏi của ông tăng chỉ rằng ông còn vương tưởng rằng tự tính có thể cầu được. Do đó Đại Mai phủ định để phá cháp cho ông, khiến ông bỏ ý niệm mong cầu giải thoát mà vào thông ngộ cảnh.

Công Án Thứ Tư: Một ông tăng hỏi Đạo Thương: “Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?”

Một vị sư già thiền trưởng lên hỏi: “Hiểu không?”

“Không hiểu!”

Sư hét lớn, đuôi đi.

Thiền địa vận vật, cho đến tất cả mọi hiện tượng nhà Phật đều gọi chung là tưởng. Tưởng là do nhiều điều kiện mà thành. Danh là phụ hiểu của tưởng. Kinh Kim Cương nói: “Phàm có tưởng đều là hư vọng. Tưởng đều không thiết, hưởng hộ là danh do tưởng mà có, nhưng mà người thường dùng trí phân biệt mà nhận thức hiện tưởng cho nên: hương không thể đồng thời là lục, trắng không thể đồng thời là đen. Nếu có thể bỏ được sự phân biệt ta người, không còn phân biệt có không thì có thể tiến vào cảnh giới tuyệt đối.”

Sư già thiền trưởng giơ lên hỏi có hiểu không. Ông tăng đứng trên quan điểm người thường thấy giơ và mà mình không thể cùng một thể, nhưng đứng trên quan điểm của cảnh giới tuyệt đối thì giơ không phải là giơ mà là giả danh do con người gán cho, kỳ thực nó cũng vận vật một thể, đều là tự tính hiện lộ. Ông tăng lìa danh tưởng đương nhiên không thể ngộ tự tính nên bị thiền sư đuôi đi.

Công Án Thứ Năm: Hồng Châu Pháp Hội hỏi Mã Tổ: “Ý tổ sư từ Tây sang là sao?”

Mã Tổ bước lại gần, tạp cho một tai và báo: “Sáu tai chẳng đồng mẫu, ngày mai hàng tới. Hôm sau, sư vừa vào pháp đường thừa: Thỉnh hòa thường nói. Đi đi! Đời lão hơn thường đường sẽ chứng minh cho người. Sư bên ngộ, thưa: Tá ơn đại chứng chứng minh. Sư đi nhiều pháp đường một vòng rồi đi.”

Ý Tây sang là chỉ Đạt Ma tổ từ Tây thơ qua truyền ý chỉ gì? Câu này giống như câu Đại Ý Phật pháp là gì? Đều là hỏi về tự tính. Để trả lời Hồng Châu Pháp Hội cho một bạt tai, lại nói sáu tai chẳng đồng mẫu, vì vậy sáu tai ở đây là chỉ sáu căn, là sáu khí quan của con người.

Khi sáu căn gặp sáu trần thì sinh ra chủng chủng kiến vãn giác. Tác dụng này khiến tâm phân biệt cho hiện tượng và tự tính là hai. Nếu muốn nắm lấy tự tính thì phải không cho sáu căn nương vào ngoại duyên, mà phải luyện cho thân tâm là một, do đó Mã Tổ mới nói sáu căn chẳng đồng mẫu, cũng là chỉ Pháp Hội hãy còn vương tâm. Mã Tổ cho ông một bạt tai là để giúp ông rơi bỏ vương tâm mong cầu.

Pháp Hội vẫn chưa hiểu khắp tâm của Mã Tổ, hôm sau lại đến. Mã Tổ lại nói thác là đời mình thường đường sẽ chứng minh cho ông. Cuối cùng Pháp Hội đã hiểu mình còn vương tâm mong cầu. Sự khư khư của Mã Tổ cho thấy người sư phụ Thiền Tông phải dùng nhiều phương tiện để giúp môn đệ thức tỉnh.

Công Án Thứ Sáu: Đối với câu hỏi này có thiền sư trả lời: “Độ sức sanh mà không độ các ông.”

Vì sao độ sức sanh mà không độ con người? Thực ra, câu đáp này hàm ý thiền sư đã thể nghiệm: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tính; mặt khác phát huy phải tự mình thể nghiệm. Không độ các ông vì các ông phải tự độ. Không độ các ông và câu nói “Độ sức sanh” cùng nằm trong cảnh giới tự tại vô ngại.

Công Án Thứ Bảy: Một ông tăng hỏi Giá Trí: “Ý tổ sư từ Tây qua là gì?”

“Đời ông ấy từ bên ấy qua, tôi sẽ báo.”

Thiền sư ám chỉ ông tăng tự thể nghiệm tự tính.

Công Án Thứ Tám: Một ông tăng hỏi Đạo Ấn: “Ý tổ sư từ Tây sang là sao?”

“Năm Phục Thông thứ 8 gặp Lương Quái, cho đến nay vẫn chưa có tuyệt.”

Câu trả lời ly kỳ có mục đích là cắt đứt sự suy nghĩ của ông tăng. Bằng cách xen vào các sự kiện lịch sử hay con số, thiền sư tạo ra một độc lập tâm linh độc lập, khiến ông tăng không thể dùng suy luận để tìm hiểu.

Giáo Pháp Vượt Lời Nói

Bồ Đề Đạt Ma và những công án thiền liên quan đến ông cho chúng ta thấy một điều quan trọng: giáo pháp cao nhất của Thiền Tông không thể truyền qua lời nói. Nó phải được truyền từ tâm tới tâm, từ bộ phận thâm sâu nhất của con người này sang bộ phận thâm sâu nhất của con người khác. Đây là cái được gọi là “truyền ngoài giáo lý” – không dựa vào các kinh điển hay những lý thuyết phức tạp, mà dựa vào sự chứng ngộ trực tiếp.

Những công án này không hỏi chúng ta hiểu cái gì hay tin cái gì. Chúng buộc chúng ta phải dừng lại việc tư duy thông thường, phải vượt qua những lưới câu sắp sẵn mà tâm thức thường dùng để bắt bệ thế giới. Chúng mời gọi chúng ta trở về với chính mình, với cái bộ phận sâu nhất của con người mà không còn sự can thiệp của lý trí.

Hành trình tu tập Phật giáo không phải là hành trình của kiến thức accumulation mà là hành trình của sự chuyển hóa. Bồ Đề Đạt Ma đã mang tới Trung Hoa chính điều này – giáo pháp vượt ngôn ngữ, vượt ký hiệu, vượt tất cả những gì mà lý trí có thể nắm bắt. Những công án thiền được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, chúng vẫn tiếp tục chính công việc đó: giúp chúng ta thức tỉnh tại chính nơi đây, chính lúc này, trong sự kiện giản dị nhất của cuộc sống hàng ngày.

Related posts

Vua Minh Mạng và Những Lần Ghé Chùa Thiên Mụ: Niềm Tin Phật Giáo Trong Lòng Một Vị Vua Anh Minh

Administrator

Tây Du Ký: Nội Chứng Trên Đường Hành Đạo

Administrator

Đức Phật Dạy Gì Về Bùa Phép và Bói Quẻ?

Administrator