Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp tầng sinh của các Phật học viên: Báo Quốc – Huế, Phổ Đà – Đà Nẵng, Hải Đức – Nha Trang, Già Lam – Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho tầng sinh các Phật học viên.
Hành Nguyện Phụng Hiến Tiếp Chúng Độ Tầng
Từ ngày biết Ôn qua những năm ở Phật học viện Hải Đức Nha Trang, tu viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn vào những thập niên 60-80, lúc nào Ôn cũng gần gũi chăm sóc học tầng như là hành nguyện hay sự sống của chính Ôn. Ôn ăn cần thẳm hơi lo lắng vun bồi. Ôn nuôi dưỡng đàn hậu học như nuôi dưỡng chính mình một cách thiết tha cần trọng, vì Ôn thường nói: “Tre tán mạng mới”. Do vậy Ôn mang hành nguyện bảo bọc đàn con cho được trưởng thành để tiếp nối con đường hoàng dương chính pháp, báo đáp Phật ân. Hành nguyện này đã thể hiện qua nếp sống của Ôn, qua công đức của Ôn.
Kể từ ngày đảm nhận trọng trách trong chọn sơn môn, tòng lâm, pháp vụ, Ôn đã đem hết tâm nguyện một đời hy hiến, phụng sự để thành lập các Phật học viện, từ đó có người tiếp nối, tầng giã có kẻ sáng soi; làm bậc thạch trụ thiện gia, long tượng thạc đức. Một mình Ôn chồng gậy đi khắp các miền để giảng dạy giáo huấn bao thế hệ học tầng từ miền Trung: Báo Quốc – Huế, Phổ Đà – Đà Nẵng, cho đến Phật học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, và cuối cùng nơi xả bỏ báo thân, thâu thánh thể tích là tu viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn.
Nơi nào cũng in dấu chân đi, cũng lưu giữ hình ảnh từ hòa dung dì của Ôn suốt một chặng đường dài hơn nửa thế kỷ. Dù mưa hay nắng, Ôn vẫn thong dong tự tại nơi thiền thất trên ngọn đồi Trải Thủy của cụ Võ Đình Dung hiện cũng, hoặc Ôn chồng gậy xuống hậu tá bên cạnh phòng thầy Trường San, Giám sư Phật học viện và dùng cơm với quý thầy. Ôn thường nói với thầy Đương Minh, mỗi khi thầy qua thăm viện: “Mỗi tháng thầy cho anh em học tầng mỗi vị vài chức nghe, để anh em có chút tiến dần tới, kéo tới.” Thầy Đương Minh cười: “Ôn lo cho mấy chú học tầng còn hơn lo cho Ôn nữa.” Đây là cái hành nguyện của Ôn mà suốt bao năm tháng gần gũi với Ôn mỗi thầy được tấm lòng chăm sóc của Ôn.
Ôn Già Lam – Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ tu tập tại tu viện Quảng Hương Già Lam
Ôn nói với thầy Đương Minh làm kinh tế tự túc để có điều kiện nuôi dưỡng học tầng. Kinh tế tự túc đó là các hàng: xì dầu lá bụp độc, hương giải thoát, đèn giác ngộ, thuốc tây phiền nào, xí phòng chân như… nhờ vậy mà ngày hai buổi học tầng chỉ cắp sách đến trường học hai ban: chuyên khoa, phổ thông mà không phải lo lắng đến cái ăn, cái mặc. Tất cả đều đã có Ôn. Ân sâu, nghĩa nặng, các học tầng kính trọng Ôn như cây tùng già, như tấng cây đại thụ che mát cả quãng đời học tầng.
Tính Đức Uy Nghiêm Và Hành Nguyện Độ Đời
Tính đức uy nghiêm, hành nguyện độ đời, nhưng khi đàm đạo với Ôn Tự Đàm thánh thanh thoát, tự tại. Ba hình ảnh của các bậc kỳ túc hiếm quý của Phật giáo Việt Nam. Ôn nuôi học tầng, Ôn mở Phật học viện đó là tâm nguyện hàng đầu của Ôn. Ôn mở các giới đàn – tuyển Phật trưởng, chọn người làm Phật, để truyền trao giáo pháp cho thế hệ kế thừa. Ôn nuôi dưỡng học tầng, Ôn đào tạo tăng tài hướng về tương lai của đạo pháp được hưng thịnh. Vì Ôn quan niệm: Tăng phải có tài đức để gìn giữ giòng máu của Đạo, phát huy bản thể của tăng giã để ngồi nhà Phật pháp được vững vàng, trường lưu sáng lạn.
Ôn nói với thầy Đương Minh là làm kinh tế tự túc để có điều kiện nuôi dưỡng học tầng. Những công việc lặp lại hàng ngày mà Ôn không bao giờ nhàm chán, Ôn vẫn thực hiện với tâm một và hành động linh hoạt, phù hợp với từng sinh tại từng thời điểm. Đó là bản lĩnh của Ôn trong công việc hằng ngày.
Nhà Đạo Học Qua Ý Vị Thi Ca
Ôn đã để lại cho hậu thế nhiều bài thơ chữ Hán, thơ chữ Việt, những câu đối để tặng treo nơi các Tổ Đình, Tòng Lâm ở Huế… những bài phúng điếu các bậc tôn tức viên tích. Tâm hồn thi kế của Ôn được thể hiện qua những bài kệ phú pháp cho những vị để từ:
Phú phẩp dự Thích Độc Thiêu
“Độc Độc Thiêu gia phong
Cổ kim như thị đông
Pháp quang hương bất tận
Hải ân thể hàm dung.”
Phú phẩp dự Thích Độc Tâm
“Độc vi trí giả Tâm
Hà tu hương ngoài tâm
Hữu vô thường đoạn luận
Hải tạng bất duy tâm.”
Và vị để từ còn hiện diện dưới mái tu viện Quảng Hương Già Lam hôm nay, HT. Độc Chơn, Ôn đã phú phẩp:
Phú phẩp dự Thích Độc Chơn
“Ba trăng tâm nguyệt hiện
Nhân duyên hoa sinh
Độc Chơn tâm thường tịnh
Hải tính tự nhiên thanh.”
Hơn thơ phong phú của Ôn, những bài thơ chữ Nho, như viết trong đời sống đạo, tại Phật học viện Nha Trang, kỷ niệm Phật Đản 2005 như sau:
“Mang mang trường dạ trung
Tam bảo vi minh đăng
Thao thao khổ hải nội
Tam bảo vi tự hạng.”
Dịch:
“Hoang mang giữa quãng đêm dài
Nay ngồi Tam bảo là đài quang minh
Ngập trời bộ khổ lãnh đình
Nay ngồi Tam bảo sinh linh thuyền tự.”
Ý chỉ của những thi kế này, người đọc thấy được tâm tu, lòng từ của Ôn nghĩ về cuộc đời, chúng sinh nhiều khổ lụy mà đang đợi tay để cứu tế mọi loại đưa qua bờ Giác. Chỉ có ngồi Tam bảo mới là nơi nương tựa để cho chúng sinh tu tập thoát kiếp khỏn cùng. Chỉ có ngồi Tam bảo mới là thuyền tự vợt người trên biển trầm luân, nơi dòng sông sinh tử. Đó là ba ngôi báu cho chúng sinh quy ngưỡng, tôn thờ mà khai sáng tí chút giác hiểu lộ tâm tự làm nguồn được cho đời mình tránh cảnh tâm tội.
Thiền tập tại tu viện Quảng Hương Già Lam, nơi Ôn Già Lam viên tịch tu hành
Hành nguyện độ đời, Ôn đã bước chân theo Bồ tát Phổ Hiền để thực hành các phương tiện, thiện xảo mà không từ nan một khó khăn nào, đây là tinh thần: “Thật tế là lý địa bất thờ nhất trần. Phương tiện môn trung bất xả nhất pháp.” Qua bài: Tụng kinh Hoa Nghiêm cảm tác
“Phần hương nhất nguyện pháp không vương
Đại hành đồng tham biển cát tương
Sát hại trần thân thi diệu lực
Trầm kha chương loại tận an khương.”
Dịch:
“Đốt nên tâm hương trước Phật đài
Phổ Hiền hành cả nguyện nào sai
Hiện thân cát bụi vào muôn nào
Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loại.”
Ôn đã vân du bằng đôi chân hóa độ, bằng đôi tay cứu khổ và bằng tấm lòng Tự bi suốt một đời. Từ bấy đến nay, mỗi khi nhắc đến Ôn Già Lam, quý thầy học tầng ai cũng ngẩm ngùi tưởng nhớ.
Ở trên là những bài thơ chữ Nho, và bây giờ là những bài thơ chữ Việt, qua bài: “Cảm đó non bộ bản đồ Việt Nam” tại thiền thất Phật học viện Nha Trang:
“Dấn thân máy bạc giang hồ
Chính lòng quê Mẹ dự đồ Việt Nam
Nay thắng tích nơi danh lam
Máu xương trang trải ai làm nên khung
Đức vun khí tiết hào hùng
Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyên Hoàng
Trương Sơn một dải hiện ngang
Công nhìn công ngẩm muôn vạn thân yêu
Non sông gấm vóc mẹ miêu
Ngàn năm vẫn hiện nhiều điều giả gương
Dù cho Nam Bắc đôi đường
Đốt là lờ hương nguyện bốn phương một nhà
Sớm hôm hương nào Phật Đà
“Sắc không” tâm sứ đường xa nơi gần
Mong sao giữ vạn mưới phần
Thanh cao dáng núi, trong ngàn về sông
Gấm vóc gương nước tinh thần
Đạo vàng dân tộc chiếu hông muôn Xuân.”
Hơn non bộ đẹp theo hình dáng bản đồ Việt Nam ở phía sau thiền thất dưới rặng cây Bồ đề mà cứ mỗi chiều Ôn đem rau muống, rau cải cho cá Tây tưởng, cho rùa ăn rồi ngồi nói chuyện với chúng giống như nói chuyện với mấy chú học tầng làm thí giả. Đây là tâm Tự bi vô phân biệt của Ôn đến với mọi loại.
Giáo Pháp Thâm Sâu Qua Thi Kệ
Đọc bài thơ trên thấy được nơi niệm, tâm tự của Ôn đầy ắp tình tự quê hương, dân tộc. Ôn thường tự hỏi: “Quê hương Việt Nam xinh đẹp, quê hương Việt Nam mẹ kiều, biết bao thắng tích, danh lam… do ai tạo dựng, do máu xương nào trang trải, hy sinh? Đó chính là dân tộc Việt Nam, là các bậc anh hùng liệt nữ đã đem xương máu của mình tô thắm non sông, làm tưởi đẹp quê hương, giòng nói. Dòng lịch sử của quê hương dân tộc Việt Nam ngọt mấy nghìn năm qua đã anh dũng, quất cường để giữ yên bộ côi, tạo thành cái nôi nuôi lớn muôn dân. Đồng thời dòng lịch sử dân tộc Việt Nam đã hòa quyện với nếp sống tâm linh, giáo pháp Phật Đà để tạo dựng một nền văn hóa giác ngộ cho quê hương dân tộc Việt Nam.”
Ôn đã khuyến tấn, nguyện cầu cho con dân Việt Nam, cho phật tử Việt Nam, cho quê hương và đạo pháp Việt Nam được trân vương trong ý nghĩa, được thành tựu trong đời sống thanh bình hạnh phúc như những lời thơ: “Ngàn năm vẫn hiện mẹ miêu giả gương” Hoặc:
“Sớm hôm hương nào Phật Đà,
“Sắc, không” tâm sứ đường xa nơi gần”
Và cuối cùng:
“Gấm vóc gương nước tinh thần
Đạo vàng dân tộc chiếu hông muôn xuân.”
Đây chính là hành nguyện của Phổ Hiền Bồ tát đem đức Tự bi để tạo lập một thế giới an lạc thanh thoát cho chúng sinh.
Hành Nguyện Niệm Phật Vãng Sinh
Pháp môn của Ôn là Thiền Tịnh Song tu. Tối tịnh độ ngồi thiền. Khuya công phu lấy Phật 108, đều đắn không hề xao lãng. Bằng pháp môn tu Tịnh độ ấy mà Ôn có những văn thơ khuyến tu Tịnh độ đến với học tầng và phật tử:
“Pháp môn Tịnh độ gắng tu hành
Giữ trồng niệm tin quyết vãng sinh
Bộ khổ thuyền tự buồm thuận gió
Hở trong sen ngát đất trời thanh
Mẹ hiện tựa cửa trông con dài
Cha khổ đưa tay đón kế thành
Cứu độ sinh linh hoàng thế nguyện
Nhất tâm bất loạn niệm hồng danh.”
Một đời niệm Phật, lấy Phật nên tính được Phật, nghi dung Phật đã thể hiện trong tư oai nghi của Ôn đến với mỗi người, chúng tầng, cỏ cây hoa lá trong các Phật học viện. Mỗi sáng Ôn kéo dây tưới nước cho hoa kiễng tươi tốt, quét rác lườm là cho sân chùa sạch mặt. Trong bất cứ lúc nào Ôn cũng niệm Phật hồi hương cho tất cả chúng sinh đều được an lạc.
Ôn Già Lam viên tịch tại tu viện Quảng Hương, nơi Ôn hoàn thành hành nguyện độ đời
Ngoài những tác dịch phẩm về Kinh, Luật, Luận, Ôn còn soạn giải: Pháp môn Tịnh độ. Ý Nghĩa Tịnh độ. Trì danh niệm Phật. Phát nguyện vãng sinh cực lạc… chứng ấy đủ biết là Ôn nhất tâm niệm Phật để vãng sinh và phát nguyện thể chứng chơn thường của người thọ trì kinh Pháp Hoa qua ba đức tính: Nhân Như Lai, Ão Như Lai, và tòa Như Lai. Từ sự phát nguyện ấy Ôn cảm tác lời thơ:
“Một lòng kính lấy Phật Đà
Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai
Con hằng mặc áo Như Lai
Con ngồi pháp tòa Như Lai muôn đời.”
Sáng nay, nơi chính điện tu viện Quảng Hương Già Lam rực sáng những chiếc y vàng trang nghiêm tịnh tựa trong giờ hộ canh ngồi thiền, sau đó là xướng 108 lấy Phật, âm thanh như trầm mặc, từ hòa, nhập nhàng, thanh thoát làm khách thập phương dừng chân đường lại lắng nghe mà lòng cảm thấy an nhiên siêu thoát với lời kinh. Ôn xướng:
“Xứ thế giới như hư không
Dụ Liên hoa bất trước thủy
Tâm thanh tịnh siêu ư bỉ
Khổ thủ lìa vô thường tôn.
Tất cả Đại chúng cùng hòa:
- Nhất tâm đảnh lễ về lai tinh tú kiếp tận thập phương vô tận thế giới tam thế nhất thiết chỉ Phật hải hội. Bồ tát vô lượng thành hiện.
Cứ như vậy, 108 lấy mà gọi giấc không mỏi, lưng giấc không đau, thành tâm, chính ý, nguyện được vãng sinh thường phẩm liên trì bất thời.
Dù Ôn ở nơi tu viện Quảng Hương Già Lam, hay Phật học viện Hải Đức Nha Trang trên đồi Trải Thủy, giờ giấc niệm Phật, lấy Phật đứng giờ nghiêm túc chẳng hề sai trái.
Đêm nay, ngoài trời mưa tầm tã. Gió từ biển Nha Trang thổi mạnh làm dập nát lá cành cây trái. Từng chùm hoa khế lung đời tung bay. Không gian như đầm ướt, thời gian như lặng chìm. Trong thiền thất, bên cạnh ngọn đèn dầu hết vị soi bóng mờ trên hộp tạp, cạnh cửa sổ phía sau, ba hình ảnh bậc Kỳ tục Phật giáo Việt Nam thời căn đại đang ngồi xếp bằng trên bộ phần, tay lặn chuỗi hạt 18 hột mà tưởng như quý Ôn đã thể nhập cảnh giới vô dư.
Kính lấy Giác linh Ôn!
Cứu học tầng – Thích Nguyên Siêu
CÙNG NHAU XIỂN DƯƠNG ĐẠO PHẬT
Theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyền góp một lần hoặc hàng tháng.
STK: 117 002 777 568
Ngân hàng Công Thương Việt Nam
(Nội dung: Họ tên + tài thí Xiển Dương Đạo Pháp)