Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Linh Hồn và Luân Hồi: Công Năng Chuyên Chở Nghiệp Báo Trong Phật Giáo

Từ thời cổ đại, nhân loại luôn tự hỏi: cái gì đã giúp cho sự luân hồi, chuyển sinh được thực hiện? Phải chăng đó là linh hồn? Linh hồn thực sự có tồn tại hay chỉ là khái niệm tâm linh của con người? Những câu hỏi này không chỉ vang vọng trong các tạo vật quan niệm tôn giáo, mà còn là những thắc mắc chính đáng của những Phật tử muốn hiểu sâu sắc giáo pháp luân hồi của Đức Phật.

Qua các tạo vật quan niệm khác nhau từ phương Đông đến phương Tây, từ các tôn giáo cổ điển đến triết học hiện đại, khái niệm “linh hồn” luôn chiếm vị trí trung tâm trong việc giải thích hiện tượng chuyển sinh. Tuy nhiên, Phật giáo có cách tiếp cận riêng biệt, không phải xem linh hồn như một thực thể độc lập bất diệt, mà như một công năng, một luồng năng lượng tinh thần giúp duy trì sự liên tục của kiếp người qua các kiếp sống khác nhau.

Khái Niệm Linh Hồn Qua Nhiều Nền Văn Hóa

Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, “hồn” là phần tinh thần hay linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng của con người. Các nước phương Tây gọi linh hồn qua những từ như Âme (Pháp), soul (Anh), psyché (Hy Lạp) hay seel (Đức). Từ “Âme” được giải thích là nguyên lý của sự sống, của tư tưởng hay của cả hai, khi nguyên lý này được xem như một thực tại khác biệt với thể xác, qua đó hồn hoạt động.

Ở châu Âu, nhà triết học Plotin cho rằng con người phạm tội, khi chết linh hồn rời khỏi thân xác sẽ nhập vào một cơ thể khác để trải qua một kiếp sống khác nhằm trả nợ những tội lỗi, sai lầm mà người đó đã gây ra trước đó. Nối tiếp Plotin, những nhà triết học như Descartes, Pascal, Schopenhauer, Ralph Waldo Emerson, Frederic William Henry Myers cũng tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữa của linh hồn. Tuy nhiên, nhà Phật học D. T. Suzuki lại khác biệt khi cho rằng linh hồn không thể được khái niệm như một thực thể hay một đối tượng như bất cứ một đối tượng nào khác mà ta đã thấy quanh ta.

“Linh hồn không thể là cái có hình dạng hoặc có thể nhìn thấy được qua mắt người,” theo Suzuki, “bởi vì nếu là hữu hình thì làm sao linh hồn đi vào thể xác được?” Với người Hy Lạp cổ đại, linh hồn chính là cái tinh thần có nhiệt, cái giúp ta cử động hô hấp.

Linh hồn được xem là phần tinh thần thâm sâu nhất của con người theo nhiều nền tôn giáoLinh hồn được xem là phần tinh thần thâm sâu nhất của con người theo nhiều nền tôn giáo

Quan Niệm Ba Hồn Trong Truyền Thống Người Việt

Người Việt Nam và Trung Hoa chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa cổ xưa, họ quan niệm rằng con người có ba hồn. Ba thứ hồn này bao gồm: Sinh hồn – phần đem lại sinh hoạt lực cho thể xác; Giác hồn – giúp thu nhận và thể hiện các cảm giác và những phản ứng; Linh hồn – là phần quan trọng nhất, đây là phần thâm sâu vi diệu nhất của con người và chính nhờ phần này mà sự luân hồi, đầu thai, chuyển sinh được thực hiện thuận lợi.

Thuyết về linh hồn nguyên thủy (Animism) xuất hiện từ thời kỳ cổ đại, theo đó tất cả mọi thứ trên quả đất từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cây đất đá đều có linh hồn. Quan niệm này còn bằng bạc trong dân gian và ta cũng đã thường gặp lại trong các câu nói như “Hồn thiêng sống núi,” “Hồn nước.” Ngày nay, một số lớn người ở Châu Á, Phi Châu, Úc Châu và nhất là các thổ dân vùng Hải Đảo vẫn còn tin tưởng về thuyết này. Tuy nhiên, tùy theo tôn giáo, phong tục, tập quán mỗi quốc gia mà sự tin tưởng của mỗi dân tộc có vài khác biệt, nhưng phần chính yếu thì vẫn giống nhau đó là sự tin tưởng rằng có linh hồn.

Theo Âu Mỹ, linh hồn (soul) được xem là nguyên lý của sự sống và ý thứcTheo Âu Mỹ, linh hồn (soul) được xem là nguyên lý của sự sống và ý thức

Vai Trò Linh Hồn Trong Các Tôn Giáo Khác

Theo quan niệm Ấn Độ giáo, linh hồn là thực thể vô cùng quan trọng đối với mọi vật thể sống. Linh hồn được gọi là Atman và do đấng toàn năng Brahma tạo ra. Theo Ấn Độ giáo, tất cả mọi loài sống trên quả đất này đều có linh hồn. Linh hồn bất sinh bất diệt, linh hồn giúp sự tái sinh chuyển hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác này qua thân xác khác để trải qua một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt được điều kiện để hợp nhất hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được hiểu như linh hồn của vũ trụ.

Đối với người Ai Cập cổ đại, khi chết linh hồn sẽ thoát khỏi thể xác nhưng họ dùng hình ảnh một phi điêu biểu tượng cho linh hồn. Thể xác thì tan rã nhưng linh hồn thì tưởng tồn và chuẩn bị chuyển vào một cuộc sống mới khác qua một thân xác khác. Việc ướp xác của người Ai Cập phần lớn chủ đích muốn duy trì sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác được lâu dài.

Đối với người Tây Tạng, hồn là phần linh diệu trú ngủ trong một phần gọi là thân xác. Thể xác chỉ có cái vỏ cho hồn trú ngủ mà thôi. Hồn và xác liên hệ nhau qua một thể giống như sợi dây đặc biệt có tính từ. Khi sợi dây đó đứt chính là lúc hồn lìa khỏi xác.

Người Ai Cập tin rằng linh hồn không bị ảnh hưởng khi thân xác tan rãNgười Ai Cập tin rằng linh hồn không bị ảnh hưởng khi thân xác tan rã

Linh Hồn Trong Giáo Lý Phật Giáo

Riêng đối với Phật giáo, sinh vật, nhất là con người, có một cái năng lực vi diệu được chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Cái năng lực đó được gọi là Yid Kyi Mawpar Shespa – một danh từ áp đặc biệt phức tạp mà thông thường được hiểu như cái gọi là “Linh Hồn.” Hai chữ linh hồn đối với quan niệm Phật giáo thật ra chỉ là danh từ tạm dừng mà tạm hiểu cho thuyết luân hồi chuyển hóa của kiếp người theo luật Karma (nghiệp) để người bình dân dễ lĩnh hội mà thôi.

Vì con người thường hiểu nhầm chữ “Linh Hồn” với “Thân Trung Ấm” hay “Thần Thức” là phần lìa khỏi thân xác sau khi chết. Tuy nhiên, để dễ hiểu khi giải thích sự chuyển hóa của hiện tượng luân hồi, tái sinh, linh hồn được xem như cái cầu nối, là cái chuyển sinh là cái để đầu thai, trả nghiệp. Vì thế nhiều sách Phật giáo thỉnh thoảng vẫn thấy bóng dáng chữ “Hồn” hay “Linh Hồn” vì một phần nào để giản dị hóa cho vấn đề là con người sau khi chết sẽ lại tái sinh tùy theo những gì mà người đó đã gây ra trước đó.

Theo lý thuyết Phật giáo, “Thần Thức” (consciousness) chính là cái cầu nối giữa các kiếp sống. Thần Thức không phải là một linh hồn bất diệt, mà là một luồng ý thức liên tục được sự hành động, tư duy trong quá khứ quy định. Khi chết, thân xác khiến cho Thần Thức rời khỏi nhưng Thần Thức này không bị tiêu diệt mà tiếp tục tồn tại dưới dạng các hạng mục tinh thần, tiếp tục chuyển sinh theo loại nghiệp mà cá nhân đã tích tụ.

Thân Trung Ấm là giai đoạn quá độ của ý thức sau khi chếtThân Trung Ấm là giai đoạn quá độ của ý thức sau khi chết

Thân Trung Ấm: Giai Đoạn Quá Độ Sau Khi Chết

Theo quan niệm trong dân gian của người Việt Nam, phần lớn chịu ảnh hưởng quan niệm của đạo Phật, sau khi con người trút hơi thở cuối cùng thì cái mà ta gọi là linh hồn, mặc dù đã thoát khỏi thể xác, nhưng lúc này “linh hồn” còn như ở trong trạng thái tự do, chưa nhập vào một thân xác mới, giai đoạn này phải trải qua một thời gian là 49 ngày. “Linh hồn” thuộc giai đoạn 49 ngày này được gọi là Thân Trung Ấm, một cái “thân” khác với nhục thể đã bất động là thân xác.

Thân Trung Ấm còn được gọi là Thần Thức. Phần lớn con người khi chết đều phải qua giai đoạn trung ấm này (ngoài trừ những người đã có sẵn đạo đức tu hành, nghiệp quả lớn thì được sinh ngay lên cảnh giới cao còn những người ác độc thì phải sinh vào địa ngục sau khi chết). Thân Trung Ấm có thể xem như linh hồn, tuy không có hình hài, tai mắt như thân xác, nhưng vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe và đặc biệt lại có thể đi thông suốt qua mọi vật, nhưng con người đang sống không thể thấy được Thân Trung Ấm.

Trong Luận Câu Xá (cuốn thứ 9), có một đoạn mô tả về Thân Trung Ấm như sau: Thân Trung Ấm của chúng sanh nơi Dục giới có kích thước bằng một đứa bé 5 đến 6 tuổi nhưng linh hoạt sáng suốt vô cùng. Thực ăn chỉ toàn là mùi hương vì thế mà có tên là Cân Thát ba. Khi chết, thân xác không còn biết gì nữa. Lúc đó “linh hồn” đang ở vào trạng thái của Thân Trung Ấm hay Thần Thức. Thần Thức sẽ rời khỏi thân xác. Thời gian tách rời này nhanh hay chậm còn tùy vào nhiều vấn đề.

Thần Thức của người chết thoát ra khỏi thân xác khi Thân Trung Ấm hình thànhThần Thức của người chết thoát ra khỏi thân xác khi Thân Trung Ấm hình thành

Quá Trình Chuyển Sinh Sau Khi Chết

Tổng quát, có thể chia ra làm 2 trường hợp chính sau đây:

Trường hợp thứ nhất: Thân Trung Ấm ngay tại thân xác. Trường hợp này hiếm, chỉ có những bậc chân tu, độc đắc, đã rửa sạch được nghiệp quả.

Trường hợp thứ nhì: Thân Trung Ấm rời khỏi thân xác sau một thời gian hoặc sau nửa ngày, sau vài ngày hoặc lâu hơn là 49 ngày. Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng, hồn lìa khỏi xác trong khoảng thời gian 3 ngày đầu sau khi chết rất quan trọng vì hồn có thể còn nuối tiếc thân xác và cuộc sống nên vẫn còn lẩn quẩn không chịu rời. Đối với trường hợp những người bị tai nạn, bị giết hại một cách bất ngờ thì sự tách rời của “hồn” ra khỏi thân xác lúc đó xảy ra quá nhanh, bất thình lình nên đã tạo nên một sức lớn khiến thể xác có những tư thế bất bình thường qua các phản ứng cơ thể với tác nhân bên ngoài. Thể xác sẽ có những tư thế nằm, ngồi co quắp hay gương mặt nhăn nhó, mắt mở trừng trừng, miệng há hỏng hoặc có tử huyết.

Ý Nghĩa Tu Tập Từ Sự Hiểu Biết Về Linh Hồn

Hiểu biết về linh hồn và quá trình luân hồi không chỉ là kiến thức tâm linh mà còn mang ý nghĩa thực tế cho tu tập Phật giáo. Khi nhận thức rõ ràng rằng cái gì chúng ta gây tác tại kiếp này sẽ ảnh hưởng đến kiếp sau thông qua Thần Thức tiếp tục chuyển sinh, chúng ta sẽ cẩn trọng hơn trong hành động, lời nói và tư tưởng. Hiểu biết này khuyến khích người tu hành tích cực xây dựng nghiệp lành, từ bỏ những tâm niệm xấu xa, để cuộc sống hiện tại trở thành nền tảng vững chắc cho những kiếp sống sắp tới.

Phật giáo không yêu cầu chúng ta phải tin vào linh hồn một cách mù quáng, mà là tự thấy bằng trí tuệ, tự nhận biết qua kinh nghiệm tu tập. Sự hiểu biết sâu sắc về luân hồi và vai trò của linh hồn (hay Thần Thức) giúp chúng ta tu tập một cách có định hướng, hướng tới tìm kiếm giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Đó chính là mục tiêu tối thượng của Phật giáo.

Để bước trên con đường tu tập, các Phật tử cần hiểu rằng linh hồn hay Thần Thức là phần được chuyển hóa qua các kiếp sống, điều này không có nghĩa là bỏ qua cuộc sống hiện tại. Ngược lại, cuộc sống hiện tại chính là cơ hội vàng để chúng ta tu tập, tích cúc những đức hạnh, những tâm niệm tốt lành để tạo nền tảng cho những kiếp sống hoàn thiện hơn, hay thậm chí tìm kiếm con đường thoát khỏi vòng luân hồi khổ đau.


Tài liệu tham khảo Phật học:

  • Luận Câu Xá (Abhidharmakosa), các bộ kinh Phật giáo về thuyết luân hồi
  • T.T Thích Chân Lạc, “Sống và Chết” – Nhà xuất bản Phật Học
  • D. T. Suzuki, “Phật giáo Thiền và Triết học phương Tây”
  • Các lời dạy về thuyết Vô ngã (Anatta) của Đức Phật

Related posts

Cuộc Đời Tu Học và Hành Đạo của Thiền Sư Pháp Loa

Administrator

Đi Hành Hương (Phần 2): Con Đường Tâm Tín Hướng Về Phật

Administrator

Quả Báo của Người Mẹ Phá Thai: Lời Dạy Phật Về Nhân Quả Và Trách Nhiệm

Administrator