Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Hành Trình Vãng Sanh Cực Lạc Của Bà Nguyễn Thị Tý: Bài Học Về Tâm Nguyên

Trong giáo lý Phật Giáo, vãng sanh Cực Lạc được coi là mục đích cao nhất của người tu tập niệm Phật. Không chỉ là một đức tin tôn giáo, vãng sanh là kết quả của sự kiên trì, chân tâm trong tu hành. Câu chuyện về bà Nguyễn Thị Tý (1922-2012) là minh chứng sống động về lợi ích vô hạn của việc thực hành Pháp môn niệm Phật, cách một người phụ nữ Việt Nam thường thường đã vượt qua khổ đau, xây dựng tâm nguyên vững chắc, và cuối cùng chứng realization về Tây Phương Cực Lạc ngay tại giây phút lìa bỏ thân xác.

Bà Nguyễn Thị Tý sinh năm 1922 tại Cần Thơ, trong một gia đình có truyền thống Phật giáo. Cha là cụ ông Nguyễn Văn Ngã, mẹ là cụ bà Phan Thị Mão. Gia đình bà có bảy anh chị em, sống bằng nghề nông nghiệp ở khu vực Phúc Lộc III, phường Thạnh Hòa, quận Thốt Nót. Năm 28 tuổi, bà kết hôn với ông Lê Văn Bình và sinh được sáu người con gồm hai trai, bốn gái. Cuộc sống hàng ngày của bà là một bức tranh của sự chịu đựng, cần mẫn và nhân hòa—những phẩm chất được coi là nền tảng cho đời sống Phật tử thực thụ.

Những Năm Tuổi Trẻ: Hạt Giống Phật Tâm Nảy Nở

Dù không có cơ hội học hành chính quy, bà Nguyễn Thị Tý đã tự mình tìm tòi, học hỏi giáo pháp Phật qua những bài giảng loa đài và các bộ kinh điển mà bà nghe qua. Tính tình của bà thể hiện rõ ràng: nhân hậu, giản dị, siêng năng, cần mẫn, chịu khổ kỷ trong mọi hoàn cảnh. Là người mẹ chịu trách nhiệm, bà không bao giờ oán hận hay trách than về những gánh nặng cuộc sống. Thay vì chìm đắm trong nỗi buồn, bà xem những khó khăn như là sự tu luyện tâm linh.

Lời dạy của Đức Phật từ kính điển đã in sâu trong tâm bà:

“Hồng trần là cái bạc või,

Nó không chung thủy với người nào đâu.

Cùng theo nó lại càng sâu,

Chúng sanh vì nó bị đầu thai luôn.

Những điều sâu khổ ngàn muôn,

Mỗi người đều mỗi quay cuồng khác nhau.

Người không ai giống ai nào,

Chung quy cũng một đường vào mả ma.

Ấy là định mạng người ta,

Cuối cùng ai cũng phải là thế ưu!

Hà không cầu đạo Chơn Nhu,

Để mau giải thoát kiếp người trần gian.

Dứt xong ba não sâu đăng,

Quỷ hơn cái chiếc ngai vàng trần ai.

Ngai vàng khó giữ lâu dài,

Tòa sen Cực Lạc ngồi hoài tự do.

Tu hành cần phải sớm lo,

Tử sinh là việc lớn to của người.

Nan tri sống chết nay mới,

Mau tu kẻo chẳng kịp Trời kêu tên.

Ta Bà thế giới rộng thênh,

Xưa nay thần chết chẳng quên người nào.”

Những lời nhắn nhủ này trở thành la bàn chỉ dẫn cuộc đời bà, khiến bà hiểu rõ rằng cuộc sống tại cõi Ta Bà tuy có vui vẻ nhất thời, nhưng rốt cuộc vẫn là khổ. Chỉ có tu hành Phật pháp, tu tập Pháp môn niệm Phật mới là con đường dẫn đến Tây Phương Cực Lạc, nơi không còn đau khổ, không còn sinh tử luân hồi.

Bước Ngoặt Tâm Linh: Năm 1976 – Quyết Tâm Trường Chay

Đến năm 1976, khi bà đã ngoài 50 tuổi, sau khi giao phó việc nhà cho các con, bà đã phát tâm trường chay và niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Quyết định này không phải là bất chợt, mà là hồi kết của hành trình tâm linh dài lâu. Bà nhận thức sâu sắc rằng muốn hầu thoát khỏi cái vòng sanh tử luân hồi, muốn vượt qua những khổ tâm và kiếp sống vô thường, chỉ có Phật pháp mới là ánh sáng chỉ đạo. Từ đây, bà bắt đầu sống một cuộc sống giản dị, thiền định, tập trung vào tu tập.

Cách sống mới của bà thể hiện rõ ràng: bà kiểm soát từng bữa cơm, từ thức ăn cho đến tâm mạc, để có thể giúp đỡ người khác và tham gia các công tác từ thiện xã hội. Bà thường xuyên tham dự các khóa niệm Phật tại chùa Thanh Quang, chùa Tây Lâm Phước, hoặc tại các nhà của những bạn đạo. Dù mưa nắng, mặc dầu tuổi tác tăng lên, bà vẫn không bao giờ vắng mặt. Mọi người xung quanh, dù là con cháu hay hàng xóm, đều cảm nhận được hạnh đức của bà qua từng hành động, từng lời nói.

Bà Nguyễn Thị Tý tại nhà, luôn giữ vậy tư niệm Phật hàng ngày suốt nhiều nămBà Nguyễn Thị Tý tại nhà, luôn giữ vậy tư niệm Phật hàng ngày suốt nhiều năm

Hàng ngày, bà luôn nhắc nhở các con cháu phải chịu lo tu hiền, tin sâu Phật Pháp. Mỗi khi nói chuyện với ai, bà cũng chỉ dẫn cơ cấu đến chuyện tu hành niệm Phật mà thôi, bà chưa hề nói chuyện bông lông và chuyện xấu độ của người. Lối sống này của bà không chỉ ảnh hưởng tích cực đến gia đình, mà còn truyền cảm hứng tu tập cho cộng đồng Phật tử xung quanh. Mỗi người gặp bà đều cảm thấy được sự trong sáng, tĩnh tại của một tâm niệm Phật thực thụ.

Những Năm Tháng Cuối: Từ Chứng Ngộ Đến Vãng Sanh

Đến năm 83 tuổi, do tuổi cao lao động, đi lại không thuận tiện nên bà chỉ ở nhà, chuyên tâm niệm Phật. Bà không còn tham dự những khóa tu ở các nơi như trước, nhưng cuộc sống tu tập tại nhà của bà vẫn tiếp tục không sơ sẩy. Hàng ngày, bà hành trì bốn thời: sáng lạ hành trì tắm sẽ, lạ Phật xong thì bà ngồi niệm Phật từ một tiếng rưỡi cho đến hai tiếng đông hơi. Sau giờ cơm trưa, bà đi kinh hành, niệm Phật chín vòng rồi mới đi ngủ—ngày nào cũng đều đặn như thế, không thiếu sót.

Ngoài ra, trên tay bà lúc nào cũng có xâu chuỗi để lần niệm Phật. Khi rảnh rỗi, bà thường nghe băng đĩa, đặc biệt bà thích nghe quyển “Khuyến Thiện” của Ngài Vô Danh Cư Sĩ nhiều lần. Thỉnh thoảng, có những liêu hữu Tư Đầm, Tư Rô ghé thăm, hướng dẫn về pháp môn Tịnh Độ và sách tấn tinh thần tu tập, bà chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm.

Do bà có tính cẩn thận chu đáo và nhận thức được rằng mình đã quá lớn tuổi, lại thêm con cháu trong gia đình chưa am hiểu nhiều về Phật Pháp, nên bà âm thầm chuẩn bị sắp xếp mọi thứ về hậu sự của mình: từ y phục cho đến cách thức hộ niệm và việc chôn cất. Bà thực hiện tất cả với sự tĩnh tại, không tự sự, chỉ muốn khi lìa bỏ thân thể, mọi công việc sẽ suôn sẻ và gia đình khỏi phải lo lắng.

Chứng Nghiệm Linh Thiêng: Phát Bệnh Năm 2010

Năm 2010, bà gặp phải một sự kiện y học bất thường. Bà có thói quen khi bị bệnh, bất cứ là bệnh gì thì vẫn uống nước với giấy vàng, trước khi uống, bà chỉ tâm cầu nguyện nên tất cả đều biến thành linh dược. Do con của bà không hiểu và không tin nên đem giấy vàng cất giấu đi. Đến tháng giêng năm 2010, bà đi cầu nhiều lần và nôn ra rất nhiều chất bã màu đen—đây là biểu hiện của bệnh “xuất huyết dạ dày”. Gia đình lập tức đưa bà đi bệnh viện.

Mặc dù bà không muốn đi, nhưng vẫn chiều theo ý các con. Tại Bệnh Viện Thốt Nót, các bác sĩ chẩn đoán bệnh “xuất huyết dạ dày” và tiến hành điều trị khoảng một tuần thì bà xuất viện. Về nhà, thời gian không lâu thì bệnh lại tái phát. Có những lần mất máu nhiều quá, phải chuyển xuống Bệnh Viện Đa Khoa Cần Thơ để truyền máu, mỗi lần truyền khoảng 600-800ml. Bệnh cứ dậy dida như thế suốt gần hai năm.

Mặc dù bệnh khổ nhưng tinh thần của bà vẫn vững mạnh, chưa hề quáu quẫy, rên than. Bà chỉ nằm im niệm Phật, ai đến thăm, bà cũng chỉ lo lần chuỗi niệm Phật. Lúc này, lòng thành của bà dường như được Đức Phật cảm ứng. Một đêm nọ, khi bà đau đến nhiều quá, bà chỉ thành niệm Phật, cầu xin Đức Phật sớm tiếp dẫn bà về Cực Lạc. Một lát sau, bà nghe vằng vặng bên tai có tiếng nói: “Con hết đau rồi!”. Sáng lại thì bà cảm thấy trong người nhẹ nhàng, không còn đau nữa. Từ đây, bà cũng vững tin hơn vào công đức của câu Vạn Đức Hồng Danh, sự tin tâm, nguyên tâm của bà ngày càng thêm tha thiết và sâu chắc hơn.

Những Dấu Hiệu Tiên Lượng Về Vãng Sanh

Khoảng cuối tháng 5 năm 2012, bà phát bệnh trở lại, lần này thể lực suy giảm trầm trọng. Sau một tuần lạ thì bác sĩ cho bà ra về vì thấy bà đã quá yếu. Về nhà, bà không còn đi lại được nữa, cũng không còn tự chủ được về sinh hoạt, vệ sinh của mình. Bà hoàn toàn nhờ vào sự chăm sóc, giúp đỡ của con cháu. Tay bà yếu, không còn lần chuỗi được như trước nhưng vẫn tỉnh tảo. Không tỏ vẻ khổ đau, sợ hãi, lúc nào bà cũng nhẹp môi niệm Phật.

Mỗi khi đau đến nhiều, bà niệm Phật tha thiết, bồi vì bà muốn cho con cháu được khỏi phải khổ cực vì phải lo chăm sóc cho mình nên lúc nào bà cũng tha thiết niệm Phật, cầu sớm được Đức Phật rước về Cực Lạc. Bà hạn chế tối đa về việc ăn uống, có khi chai nước lên, bên cạnh chắc nằm để thâm giường mà bà uống rất lâu ngày mới hết. Bà còn có tính quen là khi nào bị bệnh, bất cứ bệnh gì thì lần không sợ uống với giấy vàng—thể hiện trọn vẹn tâm tin vào Phật pháp.

Giáo lý Phật học nói rằng, những bệnh tật, chứng bệnh của con người thường là kết quả của những sai lầm trong quá khứ, hay còn gọi là “báo lực”. Tuy nhiên, với lòng tin tâm, nguyên tâm thành thực và sự tu tập đúng đắn, người ta có thể xóa tan những tội chướng này. Bà Nguyễn Thị Tý chính là minh chứng cho điều này. Bà không oán hận về bệnh tật, mà thay vào đó sử dụng những khó khăn này như một cơ hội tu tập, một bậc thang nâng cao nội tâm và lòng tin tâm.

Vãng Sanh Cực Lạc: Ngày 23 Tháng 7 Năm 2012

Vào khoảng cuối tháng 5 năm 2012, lần bệnh kỳ này đặc biệt nặng nề. Bà được điều trị tại Bệnh Viện Đa Khoa Cần Thơ, nhưng sau khoảng một tuần, bác sĩ nhận thấy bà quá kiệt sức nên cho ra về. Trở về nhà, sức khỏe của bà suy giảm ngày một, đến khoảng ngày 22 tháng 7 năm 2012, vào khoảng 4 giờ chiều, bà mệt nhiều. Bà nhớ con cháu đưa bà ra bộ ngửa nhà trước rồi mới đông đạo đến hộ niệm.

Hay tin bà mệt, chị liên hữu xúm lại cầu an và luân phiên hộ niệm xuyên suốt cho bà. Lúc này, bà vẫn nhẹp môi niệm Phật theo. Trước khi mất 15 phút, bà nhớ con cháu đứa dậy—đây là thao tác bà chuẩn bị để lìa bỏ thân xác. Bà ngước mặt nhìn lên ngôi Tam Bảo rồi khoát tay báo đón, nằm xuống. Cử động này bà thực hiện đủ ba lần. Sau khi nằm xuống, bà nằm nghiêng bên phải rồi đưa mặt nhìn quanh mọi người đang hộ niệm nhưng ngôi linh lực cảm ơn và tự giã, rồi bà an nhiên chắp tay niệm Phật mà ra đi trong âm thanh vang rõn Phật hiệu của hơn hai mươi đồng đạo.

Lúc ấy, đúng 3 giờ 15 phút, chiều ngày 23 tháng 7 năm 2012. Bà hương thọ 90 tuổi.

Những điểm đặc biệt sau khi bà lìa đời lần có ý nghĩa Phật giáo sâu sắc. Sau 12 tiếng hộ niệm, gương mặt bà càng thêm rạng rỡ, vui tươi, hai tay vẫn còn chắp nơi ngực, trong tư thế nằm nghiêng kiếp tường. Các khớp xương đều mềm dẻo, không cứng nhắc như người bình thường. Điểm đặc biệt là trước khi mất hai tháng, lưng bà bị gù rất nặng, không thể nằm ngửa được, mà chỉ nằm nghiêng một bên. Nhưng sau khi mất, lưng bà không còn gù nữa, mà nằm ngửa trở lại được. Chị liên hữu khám nghiệm thì toàn thân bà đều lạnh, duy chỉ có đỉnh đầu còn nóng.

Trong tình thế bình thường, bà luôn mong mỏi mọi con cháu của bà sớm lo tu hiền, ăn chay niệm Phật để sau này, linh hồn cũng được Đức Phật tiếp dẫn. Lòng thành của bà dường như được cảm ứng. Sau khi chứng kiến sự ra đi của bà thì người con thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư của bà đều phát tâm trường chay. Những vị còn lại cũng phát tâm sớm chiêu lạ Phật và dùng chay kỳ mỗi tháng bốn ngày, hầu cố gắng noi theo gương hạnh của bà.

Bài Học Vãng Sanh Cho Người Tu Hiện Nay

Câu chuyện vãng sanh của bà Nguyễn Thị Tý không chỉ là một biến cố mỹ lệ, mà còn là bài học sâu sắc cho những ai đang trên con đường tu tập. Bà chứng minh rằng niệm Phật không phải là sự tránh trốn hiện thực, mà là cách sống ý nghĩa, một hướng đi rõ ràng trong cuộc sống tất yếu phải chết chóc.

Thứ nhất, bà dạy chúng ta về sự chân tâm. Không phải vì bà giàu sang, được ưu tiên hay có điều kiện tốt mà bà mới niệm Phật. Bà sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, tuổi tác, nhưng bà vẫn kiên trì. Đó là lý do tại sao Phật pháp gọi tâm chân thành là “tam ba” của tu tập.

Thứ hai, bà chứng minh rằng vãng sanh là điều có thể xảy ra nếu ta thực hành đúng cách. Những biểu hiện như gương mặt rạng rỡ, cơ thể mềm mại, đỉnh đầu nóng không phải là những điều bình thường, mà là những dấu hiệu của sự thành tựu tu tập, của Đức Phật tiếp dẫn.

Thứ ba, bà dạy chúng ta về lợi ích của pháp môn Niệm Phật. Không cần phải là một nhà tu sâu có kiến thức Phật học rộng lớn, bà chỉ niệm Phật một cách trung thực, chân tâm, và bà đã tìm được con đường giải thoát, tìm được bình an trong lúc sinh tử luân hồi.

Cuối cùng, bà dạy rằng tu tập Phật pháp là việc làm có thể tác động đến những người xung quanh. Lòng thành của bà không chỉ giải thoát chính bà, mà còn ảnh hưởng con cháu, những bạn đạo, tạo nên một sóng năng lượng tinh thần tích cực lan tỏa trong cộng đồng.

Kết Luận: Hành Trình Vãng Sanh Là Hành Trình Của Tâm

Bà Nguyễn Thị Tý không phải một người thành tựu lạ kỳ, mà là một Phật tử thường thường của nước Việt mình, sống tại Cần Thơ, trong một gia đình làm nông. Nhưng chính vì những hành động tầm thường của bà—niệm Phật hàng ngày, sống giản dị, giúp đỡ người khác, chịu khổ kỷ không than vãn—mà bà đã chứng tớ một cuộc sống có ý nghĩa, cuối cùng lìa đời trong sự an lạc, được Đức Phật tiếp dẫn.

Trong thời đại ngày nay, khi con người bị cuốn vào sự hối hả, lo lắng, tham lam, sân hận, hạnh động của bà là lời nhắc nhở mạnh mẽ: Hãy dừng lại, hãy tu tập, hãy niệm Phật, vì cuộc sống này vô thường, vô ngã, toàn khổ, nhưng đó không phải là kết thúc. Có một con đường dẫn đến bình an, dẫn đến Cực Lạc, dẫn đến tự do tuyệt đối—và đó chính là con đường mà bà Nguyễn Thị Tý đã thành công bước qua.

Hành trình vãng sanh của bà là hành trình của tâm—từ một trái tim chứa đầy khổ đau, bệnh tật, tuổi tác, đến một trái tim được Đức Phật tiếp dẫn, được giải thoát. Đó là bài học vàng cho mỗi người tu Phật, cho mỗi người muốn tìm thấy ý nghĩa thực sự của cuộc sống.

Tài liệu tham khảo:

  • Kinh Vô Lượng Thọ – Phẩm về những lợi ích của niệm Phật
  • Khuyến Thiện – Ngài Vô Danh Cư Sĩ
  • Chuyện Vãng Sanh – Nhóm Liên Hữu Miền Nam Đất Việt, Hiệu Định: Nguyễn Minh Tiến
  • Lời kỳ công của các liên hữu Tư Đầm, Tư Rô

Related posts

Tam Thân của Đức Phật Theo Kinh Pháp Hoa

Administrator

Chúng Ta Từng Đi Khắp Lục Đạo

Administrator

Người Làm Vườn Của Vua Cúng Dâng Hoa Được Thí Kỳ Thành Phật

Administrator