Image default
Hỏi Đáp & Tra Cứu Phật Học

Lược Soạn Một Số Nội Dung Khai Thị Của Thiền Sư Thích Duy Lực Giai Đoạn 1995-1999

Chữ Phật nghĩa là giác ngộ. Nếu tu đến giác ngộ thì biết không có sinh tử, tức liễu thoát sinh tử. Tại có sinh tử mới có xáy lỗi của xương, sinh tử đã không thì những cái kia cũng là thừa.

Vấn Đáp Về Nghiệp Và Tâm Linh

Hỏi: Có nhiều người lúc trước ở Việt Nam thì sự tu cũng khá cao, qua đến đây do đời sống vật chất khiến họ bị lui suất, vậy có phải do nghiệp không?

Đáp: Ấy là bị hoàn cảnh lôi kéo, cũng như đứa bé sơ sinh chỉ có tập khí kiếp trước, chưa bị nhiễm tập khí kiếp này, rồi dần dần lớn lên mới nhiễm phải. Như nội dung nhiều trò chơi điện tử thời nay, tập cho đứa bé có tính hung dữ, sau này họ trưởng thành, khi có quyền hành trong tay rồi, chẳng biết thế giới sẽ ra sao. Xã hội ngày nay, nhiều hung thủ giết người chỉ có mười mấy tuổi, lái xe thì vô kỷ luật, những người sản xuất đồ chơi chỉ cần thu được phần lợi lực, không mộng đến hậu quả ảnh hưởng đem lại tính hung dữ cho các cháu.

Còn những nhà đầu tư thì đem chất phế thải, ô nhiễm độc hại, đầu tư tại các nước cần phát triển, chỉ biết đem phần lợi về mình là được, ô nhiễm môi trường cũng mặc kệ, chỉ cần không gây ô nhiễm trong nước sở tại của mình là được. Họ lấy danh nghĩa giúp đỡ, đầu tư, viện trợ, thực tế là truất phần ô nhiễm cho người khác.

Hỏi: Quả lạc tự xoay có ý nghĩa như thế nào?

Đáp: Nó xoay theo nguyên lý tự xoay: Ví dụ điện tử xoay nguyên tử, mặt trăng xoay theo quả Đất, quả Đất xoay theo mặt trời, mặt trời xoay theo ngân hà, nay Phòng vệ tinh lên trên không cũng xoay theo quỹ đạo… Sức của tâm cũng vậy, chẳng bao giờ ngừng. Nên Kinh Pháp Bảo Đan nói “Tất cả đều lay động chẳng tĩnh”.

Hiểu Biết Và Sự Cầu Toàn

Hỏi: Hiện nay có một số người Thiên Chúa giáo phản đối Phật giáo đó, cho là không đúng, vậy như thế nào?

Đáp: Chính Phật giáo đối với Phật pháp cũng chỉ hiểu một cách mờ hồ. Trong cuốn Góp Nhặt Lời Phật Tổ Và Thánh Hiền, tôi có đề cập đến sự nhận thức của một Linh mục người Mỹ nói về Phật giáo, sự hiểu biết của ông ấy còn hơn Phật giáo đó.

Vì Phật giáo chỉ là giải phẫu tâm linh, còn nhà khoa học là giải phẫu thể xác; thể xác chỉ là chiếc xe chở sinh mạng, chủ sinh mạng là tâm linh. Cho nên, nhà khoa học muốn tìm hiểu sinh mạng, mà cứ giải phẫu thể xác thì làm sao tìm được?

Muốn tận phái phải tìm hiểu chủ sinh mạng. Ví dụ khoa châm cứu, thời xưa Đạo giáo đã dùng tâm linh phát hiện kinh lạc nơi cơ thể con người, gồm mười bốn kinh lạc và những huyệt vị, nhà khoa học thời nay khi giải phẫu thể xác chỉ thấy thần kinh, không thấy kinh lạc. Dù chẳng thể phát hiện qua ngũ giác quan, nhưng công hiệu của châm cứu liễu pháp thì chẳng thể phủ định, nên trường đại học Mỹ có khoa châm cứu, cũng phải thực hành theo hệ thống kinh, lạc, huyệt do tâm linh phát hiện.

Lược soạn một số nội dung khai thị của Thiền sư Thích Duy Lực giai đoạn 1995-1999Lược soạn một số nội dung khai thị của Thiền sư Thích Duy Lực giai đoạn 1995-1999

Khát Quốc Ở Đạo Tu Hành

Hỏi: Vì sao Tháy trở thành Tu Sĩ?

Đáp: Thuở xưa khi bà nội tôi mất, tôi tự nghĩ tại sao lại có sự chết? Đến khi ba tôi mất thì tôi mới nghĩ sau này tôi cũng phải chết”. Từ đó tôi thường nghĩ rằng sự chết đó có thể giải quyết được không? Sau đó xem kinh Phật, mới biết viện này có thể giải quyết. Tôi bèn phát tâm xuất gia, và bây giờ tôi phát hiện được sanh tử vốn là không! Như tôi đã nói ở trên: Chủ sinh mạng là tâm linh, tâm linh không có sanh tử.

Hỏi: Lúc Tháy xuất gia còn thân phụ thân mẫu không?

Đáp: Tôi còn một người mẹ nhưng không phải mẹ ruột, bà nuôi tôi từ lúc tôi bốn tuổi, mẹ chết cách đây mấy tháng, còn người mẹ ruột thì mất lúc tôi chưa đầy một tuổi.

Hỏi: Thế thì Tháy cảm thấy an lạc không? Cảm thấy có gì là quan trọng không?

Đáp: Chẳng có an lạc hay không an lạc, vì vốn là trống rỗng chẳng có gì cả, thành ra tôi đi đến đâu cũng như vậy thôi. Nếu có cái gì quan trọng thì chẳng phải Tổ Sư Thiền; luôn cả Tổ Sư Thiền cũng không phải Tổ Sư Thiền. Họ có mục đích là có số trụ, là chướng ngại. Như bốn bài kệ của Ngài Huyền Giác Vĩnh Gia Đại Sư dùng cánh tay để thị dụ vô duyên tri của Phật tính, cũng gọi là Chính Biên Tri, cũng gọi là Trí Bất Nhã. Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bốn”, nay Ngài Vĩnh Gia dùng cánh tay để thị dụ sự tri chẳng thể kiến lập, vì có kiến lập thì có nhân duyên đối đãi, chẳng thể gọi là Vô Duyên Tri.

Nói “Vô duyên” là không có nhân duyên đối đãi, như bài kệ thứ nhất: Nếu kiến lập số tri, dù số tri là tĩch lặng, những người tu đến mức độ tĩch lặng, cảm thấy thanh thanh tĩnh tĩnh, tự cho là mức độ cao lắm mà chẳng biết họ kiến lập số tri thì có năng số đối đãi, chướng ngại sự dụng hoạt bác vạn năng của bánh tri (Vô duyên tri), như tay cầm cây nhô như ý thì trụ nơi ngoài cánh, đánh mắt sự dụng hoạt bác vạn năng của tay, tay chẳng cầm cây nhô như ý thì muốn lấy gì cũng được, họ tay cầm cây nhô như ý rồi thì lấy gì cũng chẳng được vậy.

Kiến Tính Và Chứng Ngộ

Hỏi: Hỏi Tháy xuất gia có còn thân phụ thân mẫu không? [Already answered above]

Hỏi: Tháy cảm thấy an lạc không? [Already answered above]

Hỏi: Vì sao Tháy trở thành Tu Sĩ? [Already answered above]

Tâm Trệm Cặp Và Sự Tu Tập

Trên thực tế, sự tu tập của Thiền Tông liên quan mật thiết đến khái niệm “tâm trệm cặp” – một khái niệm sâu sắc trong Phật học về những chướng ngại vô hình mà tâm chưa kiến tính phải vượt qua.

Những người học Phật có linh nghiệm là tâm trệm cặp cháy hết. Tâm trệm cặp còn một mảy lông chết chẳng hết thì muốn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trệm cặp thì học được một phần Đạo. Chết được năm phần tâm trệm cặp thì học được năm phần Đạo. Tâm trệm cặp hoàn toàn không thì toàn thể là Đạo. Bởi vì sự chướng Đạo của tâm trệm cặp giống như bụi bẩm che mặt ánh sáng của gương.

Người thế nay chỉ biết có Đạo để thành, mà chẳng biết có tâm trệm cặp nên hết. Hoặc tâm trệm cặp chưa hết mà muốn Đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn uống được, xưa nay trong thiên hạ không có lẽ đó.

Tôn Trọng Giáo Pháp Và Hành Pháp

Thiền Sư Phúc Hòa ThượngVĩnh Minh thống thiết nói:

“Tính sanh trí cách, tướng biến thể thù”, nghĩa là: Tính nội dây thì trí huệ bị che lấp, tự tưởng biến đối thì thân thể cũng theo đó mà biến dạng, khiến công án sắn sàng, của bảu gia truyền chẳng được thỉnh dụng.

Tính sanh tướng biến là biệt danh của tâm trệm cặp mà tôi vừa nói.

Muốn bất cứ lúc nào tính chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tướng chẳng biến, thì cần phải thật đem viện của lớn sanh tử để ở trong lòng, lập bít ý căn, tính vừa muốn sanh thì bị nó ngăn, tướng toan muốn biến liền bị nó đoạt.

Ông nếu chẳng vì viện lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết câu ngộ chứng, mà chỉ là một bộ đề nên cho tính tướng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người đã chết mà muốn thử ra hít vô để làm gì?

Người xưa có nói: “Tham thiền không bích quyết, chỉ cần sanh tử thiết”. Lời này thật thông suốt cả ba đời, là cội gốc lớn của sự học Đạo. Vì như chẳng lấy sanh tử vô thường là làm trách nhiệm nặng nề của mình, nặng nặc muốn hiểu thiện hiểu Đạo mà tham cứu viện này, thì giống như báo người tĩch cộc (những người suốt đời không biết đói, không cần ăn), đi cây trồng mà chẳng biết đó chẳng phải là viện của họ (vì họ không cần ăn thì cây cây để làm gì?).

Kết Luận Về Đạo Tu

Lẽ dĩ nhiên, tâm trệm cặp là chướng ngại lớn nhất trên con đường tu tập. Những ai còn bám víu vào sự hiểu biết của bản thân, tự cho là thấu đáo Phật pháp, sẽ khó mà đạt đến chân Đạo.

Chỉ khi thực sự bỏ bê tất cả những ý niệm, những suy tính, những gì mà ta cho là “biết”, ta mới có thể bước vào cõi vô tự tính của Phật pháp, nơi mà không còn người, không còn ta, chỉ có ánh sáng của chân thị của Phật tính vốn sẵn có trong mỗi người.

Đó chính là lý do vì sao Thiền Sư Thích Duy Lực nhấn mạnh: “Chủ sinh mạng là tâm linh, tâm linh không có sanh tử.”


Thích Văn Phong lược soạn

Related posts

Những Xúc Chạm Ngoài Đời Sẽ Giúp Ta Thấy Ra Sự Thật

Administrator

Thế Giới Chúng Ta Và Tây Phương Cực Lạc: Những Khác Biệt Căn Bản

Administrator

Căn Tứ Nghiệp và Sự Thực Hiện của Phút Cuối

Administrator