Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Thệ Nguyện Và Nhân Quả: Hành Trình Giải Thoát (Phần 2)

Trong hành trình tu học Phật pháp, mỗi vị Phật tử đều có những nguyện vọng thiêng liêng – những mong muốn sâu sắc về việc giác ngộ hay giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng liệu nguyện vọng ấy có khác biệt gì với sức mạnh vô hình của nghiệp lực, cái vòng luân hồi sinh tử vô số kiếp? Câu hỏi này không chỉ là vấn đề lý thuyết mà còn liên quan trực tiếp đến hành trình tu tập của mỗi người. Trong phần tiếp theo của loạt bài “Thệ Nguyện Và Nhân Quả”, chúng ta sẽ đi sâu vào sự phân biệt giữa Luân Hồi, Nghiệp lực và Nguyện lực – ba khái niệm then chốt giúp chúng ta hiểu rõ cách thức vận hành của vũ trụ tâm linh và con đường tiến tới giác ngộ.

Vòng Luân Hồi Và Nghiệp Báo

Tác lực chuyển động tâm thức con người chạy quanh vòng Luân Hồi là Nghiệp lực vận hành theo lý Nhân Quả, từ Nhân đến Quả hiển lộ ở sự Báo ứng. Do đó có danh xưng Nghiệp báo, hay Quả báo. Để hiểu rõ hơn về sức mạnh kỳ diệu của quả báo, chúng ta cần tìm hiểu cơ chế hoạt động của vòng luân hồi – cái vòng quay vô tận mà con người bị mắc kẹt trong suốt vô số kiếp.

Vòng luân hồi sinh tử được minh họa như bánh xe quay không ngừng, tượng trưng sự tái sinh liên tụcVòng luân hồi sinh tử được minh họa như bánh xe quay không ngừng, tượng trưng sự tái sinh liên tục

Nói đến Luân Hồi là nói đến Nghiệp báo, nói đến Nhân và Quả. Theo từ ngữ, luân là bánh xe, hồi là trở về, quay về chỗ cũ, diễn ý lệnh đỉnh trời đất. Luân hồi là sự quay trôn như cái bánh xe, chuyển động mãi không lúc nào ngừng, thường gọi là Vòng Luân Hồi, cũng gọi là Vòng Sanh Tử diễn ý con người hết sống rồi thác, sau khi thác lại đầu thai sanh trở lại, lần đi lần lại quanh quẩn trong Tam giới, Lục Đạo.

Nói một cách cụ thể trong sinh hoạt thực tế hàng ngày, ai cũng nhận thấy dễ dàng, đời sống con người trong kiếp thế gian là một sự nối tiếp liên miên hết vui đến buồn, hết buồn lại đến vui, hết yêu thương đến giận hờn rồi hết giận hờn lại đến yêu thương…cứ như vậy quanh đi quẩn lại vẫn trong phạm vi của Tam giới, Lục Đạo. Khi nào tu thành Đạo, hình giả mới giải thoát ra khỏi cái vòng luân hồi quanh quẩn này. Thời điểm ra khỏi có thể ở ngay trong kiếp này hay ở trong những kiếp sau.

Phân Biệt Luân Hồi Và Nguyện Lực

Để bổ sung và kiến toàn sự phân biệt khác nhau giữa Nghiệp lực và Nguyện lực, thuận lợi cho việc hành trì chân chính nghiệp của người khéo tu, hành giả cần tờ rõ sự Luân Hồi Và Nguyện lực. Nghiệp lực vận hành chuyển động theo đường tròn, biểu tượng của vòng Luân Hồi, chuyển động theo hướng tiến lên cao hơn trong trường hợp gieo Nhân lành, từ ba ác đạo (Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục) chuyển lên ba thiên đạo (Người, A-tu-la và chư Thiên), hoặc theo hướng ngược lại đốc dưới từ ba thiên đạo tới ba ác đạo trong trường hợp gieo Nhân dữ.

Biểu đồ so sánh đường chuyển động của Nghiệp lực (hình tròn) và Nguyện lực (hình thẳng)Biểu đồ so sánh đường chuyển động của Nghiệp lực (hình tròn) và Nguyện lực (hình thẳng)

Trong khi Nghiệp lực dẫn dắt hình giả di chuyển theo đường tròn cả hai hướng tiến lên và đốc xuống tùy theo Nhân lành hay Nhân dữ hình giả đã gieo thì Nguyện lực vận hành chuyển động theo đường thẳng và là đường một chiều, dục dã hồi thúc hình giả nhanh chân tiến bước cho mau tới đích đặt được điều số nguyện. Đó là con đường tiến hóa, cũng đi hình giả cũng thấy cảnh mới lạ, không gặp lại cảnh cũ đã qua, cảnh mới luôn luôn vui đẹp hơn cảnh cũ. Cũng đi cũng nhiều cảnh mới lạ, cũng nhiều điều vui đẹp, do đó còn gọi là con đường sáng tạo. Đây chính là con đường giác ngộ, con đường giải thoát, chỉ có ai đạt đạo thực chứng mới cảm nhận thấy, không thể dẫn giải được bằng ngôn từ.

Liễu Nghĩa Của Sự Phát Nguyện

Phát Nguyện là cắt bước đi trên con đường Đạo nhằm tiến tới Giác Ngộ và Giải Thoát. Câu nói này có nghĩa chính xác và đầy đủ, bao gồm cả hình đông và cứu cánh những chưa có liễu nghĩa, chưa diễn tả rõt ráo hết tất cả những chi tiết tinh vi tế nhị trong nội dung từ ngữ nguyện. Liễu nghĩa thuộc thực chất là pháp tính, ngôn từ thuộc phương tiện là pháp tướng. Tuy ngôn từ không diễn tả được trọn vẹn liễu nghĩa nhưng không có phương thức nào hơn là nương vào tượng để đặt tới Tính.

Trong phạm vi giới hạn của từ ngữ, có nhiều tiếng Hán Việt ghép đôi trong đó có tiếng đơn nguyện. Điểm qua những tiếng ghép đôi này, người thiện học dễ tiếp nhận được phần nào liễu nghĩa của sự phát nguyện:

Nguyện / Nguyên: Tiếng đơn chữ Hán, nói theo giọng Việt Nam là Nguyện, tiếng ghép đôi chữ Hán Thể Nguyện nói theo giọng Việt Nam là Thể Nguyên. Người Việt Nam dùng cả hai tiếng đơn với hai nội dung khác nhau: Nguyện là mong muốn gặp được điều tốt lành. Ví dụ: Nguyện ăn chay, Nguyện giữ giới. Nguyên là mong xảy ra điều bất hạnh như Nguyên rửa có nghĩa như Trù yếm.

Ý nguyện, Chí nguyện: Mong muốn trong lòng một điều rõ ràng, cụ thể và cố gắng đạt được. Ví dụ: Chí nguyện làm giàu.

Ước nguyện, Nguyện vọng: Ước ao, mong muốn, nói chung chung không diễn ý có cố gắng hay không cố gắng để đạt được. Ví dụ: Ai cũng có nguyện vọng sống lâu và sung sướng.

Cầu nguyện, Nguyện cầu: Mong muốn một điều khó đạt được với tự lực của mình, mong sự giúp đỡ của tha lực ở một Quyền năng thiêng liêng cao cả. Ví dụ: Cầu nguyện Phật cứu độ chúng sanh.

Thệ nguyện: Xác định điều mong muốn trong tâm, tờ lộ ra thành lời thệ gọi là Phát thệ, thành lời nguyện gọi là Phát nguyện trước sự chứng giám của một quyền năng thiêng liêng, cam kết cố gắng thực hiện cho được điều số nguyện. Ví dụ: Thệ nguyện hy sinh tất cả cho Đạo pháp.

Người Phật tử thực tập thệ nguyện với tâm thành kính trước bàn thờ PhậtNgười Phật tử thực tập thệ nguyện với tâm thành kính trước bàn thờ Phật

Ước mơ, Cầu xin, Phát nguyện: Ước mơ là mong muốn điều không có tính hiện thực như thường nói ước mơ hão huyền. Ví dụ: Ước mơ lên cung Trường sinh chung với Chí Hằng. Cầu xin là mong muốn điều do tha lực giúp đỡ. Ví dụ: Cầu xin chư Phật độ trì cho thoát khỏi khổ nạn. Phát nguyện là mong muốn điều do tự lực chính mình cố gắng thực hiện. Ví dụ: Các tu sĩ phát nguyện quên mình giúp người hoạn nạn.

Chân Nghĩa Của Sự Phát Nguyện Trên Con Đường Phật Pháp

Phát nguyện không chỉ là một hình thức tôn giáo hình thức hay lễ nghi văn hóa, mà nó đại diện cho một cam kết sâu sắc của tâm linh. Khi một Phật tử thực tâm phát nguyện, họ đang tạo ra một lực lượng vô hình – lực lượng nguyện lực – sẽ chủ động dẫn dắt hành trình tu tập của họ hướng tới mục tiêu giác ngộ. Lực lượng này khác biệt hoàn toàn với sức mạnh bị động của nghiệp lực, bởi vì nó xuất phát từ ý chí tự do và tâm nguyện thanh tịnh của chính mỗi cá nhân.

Trong quá trình tu tập, phát nguyện đóng vai trò là ngọn lửa thiêng liêng, luôn thắp sáng bước đường của hành giả khi họ gặp phải những khó khăn và thử thách. Nó là điểm tựa tinh thần, giúp hành giả vượt qua những cám dỗ của thế gian, những trói buộc của tham, sân, si. Phát nguyện chính là con đường tạo ra sự khác biệt giữa một Phật tử tu tập có định hướng và một người chỉ bị cuốn theo dòng chảy của nhân quả.

Ứng Dụng Phát Nguyện Trong Đời Sống Thực Tế

Sự phát nguyện không chỉ nằm trong các buổi lễ trang nghiêm tại chùa chiền, mà nó nên trở thành một phần không thể tách rời của đời sống hàng ngày của mỗi Phật tử. Từ sáng khi thức dậy, một người tu có thể phát nguyện rằng hôm nay sẽ sống có chánh niệm, sẽ đối xử tốt với mọi người xung quanh, sẽ cố gắng hành động theo chánh pháp.

Khi gặp phải những khó khăn, thất bại hay cảm thấy tâm hồn dao động, phát nguyện lại là lực lượng khiến người tu có thể đứng dậy và tiếp tục con đường. Phát nguyện là hành động xác nhận lại cam kết với bản thân, với Tam Bảo, và với tất cả chúng sanh. Chính vì vậy, mỗi một nguyện vọng của chúng ta đều phải được ghi nhận như một lực lượng sáng tạo, có khả năng biến đổi cả tâm thức lẫn vũ trụ xung quanh ta.

Thông qua việc hiểu rõ sự khác biệt giữa Luân Hồi, Nghiệp lực và Nguyện lực, cũng như các loại hình phát nguyện khác nhau, mỗi Phật tử có thể chủ động lựa chọn con đường tu tập của mình. Không phải chỉ là một nạn nhân bị động trước sức mạnh của quá khứ, mà thay vào đó, con người có thể trở thành người tạo dựng tương lai của chính mình, hướng tới tờ ngộ và giải thoát đích thực.


Bài viết trên được biên soạn dựa trên các kinh điển Phật giáo và truyền thống tu học Việt Nam, nhằm giúp Phật tử Việt Nam hiểu rõ hơn về giáo lý thệ nguyện và nhân quả trên con đường tu tập. Để khám phá sâu hơn về Phật pháp, bạn đọc có thể tham khảo thêm các kinh sách tại chùa chiền hoặc các trung tâm Phật học uy tín.

Related posts

Thầy Của Chúng Ta, Phật Thích Ca

Administrator

Cấp Cô Độc: Người Ēá Vẽ Nãªn Má»™t Bức Tranh Nhân Ēạo Sinh Ä’á»™ng

Administrator

Chuyện Mẹ Pháp Sư Tính Không Vãng Sinh Cực Lạc Dù Không Biết Chữ

Administrator