Trong suốt hành trình tu tập của Phật tử Việt Nam, tư tưởng Tịnh Độ luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Không chỉ là một phương pháp tu học, Tịnh Độ còn thể hiện lòng bi mẫn vô tận của chư Phật đối với tất cả chúng sinh. Giáo nghĩa và phương pháp của Tịnh Độ tổng thể hiện những gì tinh tuý nhất, cốt tủy nhất của Phật giáo Đại thừa. Vì thế, tư tưởng Tịnh Độ của Phật giáo Đại thừa là nhất quán, rộng lớn và sâu xa. Bài viết này cần cứ vào những kinh điển Tịnh Độ được lưu truyền; bốn hệ thống Đại thừa Phật giáo và các chủng loại Tịnh Độ để trình bày thảo luận.
Khác biệt cơ bản giữa Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa nằm ở điểm: Tiểu thừa chỉ hướng tới tự độ giác ngộ, trong khi Đại thừa không chỉ tu tập tự độ mà còn chuyên chỉ hết thảy chúng sinh đến Niết Bàn giác ngộ. Phương pháp của Tịnh Độ tông lấy “Tâm này là Phật, tâm này tác Phật” làm nguyên tắc cơ bản, sử dụng phương pháp trì danh niệm Phật Á Di Đà với kỳ nguyện độ tất cả chúng sinh (được coi là đời nghiệp vãng sinh) rốt ráo thành Phật. Đây chính là cốt lõi của Tịnh Độ giáo pháp mà Phật Thích Ca dạy dỗ.
Cái nhìn tổng quan về Tịnh Độ trong Phật giáo Đại thừa và ý nghĩa tu học
I. Sự Truyền Bá Của Các Kinh Điển Tịnh Độ
Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn khoảng 500 năm, toàn cõi Ân Độ chỉ hoằng truyền thị thành hình năm bộ A Hàm, nhưng các kinh điển Đại thừa Phật giáo chưa được thị thành truyền bá. Vào khoảng 700 năm sau Phật nhập Niết Bàn, Bồ tát Long Thụ xuất hiện ở Nam Thiên Trúc, hàng phục ngoài đạo, xiên dương Đại thừa. Khi đó, giáo nghĩa và kinh điển Đại thừa Phật giáo được hoằng truyền khắp cõi Ân Độ một cách rộng lớn.
Theo ghi chép lịch sử Phật giáo, Bồ tát Long Thụ nhập đại định xuống Long cung tùng kinh Hoa Nghiêm; mở thập cái lấy được kinh Đại Nhật và các kinh điển Đại thừa khác. Người sáng tác Đại Trí Độ luận và Thập Trụ Tứ Bá Sa luận đã khai thị khuyến hành giả niệm Phật vãng sinh. Bồ tát được tâm Đại tông phái Đại thừa Phật giáo ở Trung Quốc tôn xưng là sư tổ, và đều công nhân Ngài là người tập hợp, hệ thống hóa học lý Đại thừa.
Vào thời kỳ của Bồ tát Long Thụ, kinh điển có đầy đủ tư tưởng Tịnh Độ đã được lưu hành ở Ân Độ, đó là kinh Ban Đàn Tam Muội. Vào khoảng thế kỷ 11 trước Công nguyên, bộ kinh này được truyền bá. Trong phẩm Thụ Quyết của kinh Ban Đàn Tam Muội có huyền ký rằng: “Sau khi ta nhập Niết Bàn thì tam muội này tồn tại 140 năm, sau đó sẽ không xuất hiện. Vì sau vào đời loạn, kinh Phật sắp đoạn, các Tỷ kheo không tuân theo lời Phật dạy, các nước tranh giành xâm lăn nhau, khi đó tam muội này lại xuất hiện trong cõi Diêm Phù Đề.”
“Nếu người nào chuyên niệm được Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, đem những thiện căn công đức tu tập được hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh.” Đây là thông điệp cốt lõi trong kinh Ban Đàn Tam Muội, khẳng định rằng niệm Phật không chỉ là tu tập cá nhân mà còn là cách thực hiện nguyện lực của Phật A Di Đà.
Hình ảnh kinh Tịnh Độ minh họa tứ pháp tu học chính: Tâm, khẩu, ý
Một bản dịch khác của kinh này có tên là “Đại Phương Đẳng Đại Tập kinh” có đoạn: “Bạch Thế Tôn, chúng con sau khi Như Lai diệt độ 500 năm, vào cuối thời kỳ đó, sa môn điên đảo, chính pháp muốn hoại diệt, phi pháp tăng thịnh, chúng sinh hôn loạn, các nước tranh giành lẫn nhau, kinh tam muội này lại lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề.” Từ những huyền ký này, chúng ta có thể suy luận rằng: “Kinh Ban Đàn Tam Muội” được lưu truyền trong khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên.
Vào sơ kỳ Phật giáo Đại thừa, trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa đều có chuyên tài tư tưởng Tịnh Độ niệm Phật của Tịnh Độ. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử đi về phương nam tham học với 53 vị Thiện Tri Thức. Đầu tiên đến chỗ Tỷ kheo Công Đức Vân được nghe nói về niệm Phật tam muội và trong định được thấy Phật. Trong kinh Pháp Hoa cũng từng nói đến sự thật vãng sinh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Trong rất nhiều kinh điển Đại thừa có nhiều đoạn xưng tán Phật A Di Đà và chỉ dẫn vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Kinh điển Tịnh Độ tổng được lưu truyền ở nhân gian và trong các bộ luận do các bậc Tổ Đức trước tác ở Ân Độ trước kia cũng thấy có ít nhiều để cập đến tư tưởng Tịnh Độ.
Bồ tát Long Thụ trước tác Đại Trí Độ luận và Thập Trụ Tứ Bá Sa luận v.v… có rất nhiều đoạn khai thị khuyến hành giả niệm Phật vãng sinh. Trong bức thư của Tôn giả Sa Đà Bồ Hán Na gửi quốc vương Đặt Na xứ Nam Ân Độ thế kỷ 1 TCN có đoạn: “Sinh lão bệnh tử tam độc trừ, Phật quốc thác sinh vì thế phú, thở máy thế trưởng lương nan tri, đông bệ Đại giác Di Đà chủ” (Đoạn trừ ba độc sinh giá bệnh chết, thác sinh cõi nước Phật thành bậc thế phú, thở máy dài là chẳng thể tính lượng, bằng với bậc giáo chủ Đại giác A Di Đà).
Bồ tát Long Thụ và vai trò trong sự phát triển tư tưởng Tịnh Độ Phật giáo Đại thừa
II. Bốn Hệ Thống Phật Giáo Đại Thừa
Thời kỳ bắt đầu của Phật giáo Đại thừa chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bất Nhãi. Tư tưởng Bất Nhãi lại bắt nguồn từ tư tưởng “nhân duyên sinh pháp” cơ bản của Đại chúng bộ. Đại chúng bộ đã xưởng tư tưởng “Các pháp thế gian, xuất thế gian đều là giả danh” nhằm phản bác lại quan điểm “Ngã không, pháp hữu” của Thượng tọa bộ, nên phát khởi tư tưởng “Tính Không”, khiến cho Phật pháp có sự chuyên biến mạnh mẽ, làm sống lại bản hoài độ sinh của Đức Phật.
Sau khi phá bỏ được chấp pháp, đi trên tư tưởng Bất Nhãi mà xây dựng các hệ thống tư tưởng Phật giáo Đại thừa, làm xuất hiện rất nhiều kinh điển Đại thừa Phật giáo. Đại đó có thể phân chia làm bốn hệ thống lớn: 1. Hệ thống Bất Nhãi; 2. Hệ thống Pháp Hoa; 3. Hệ thống Hoa Nghiêm; 4. Hệ thống Tịnh Độ. Bốn hệ thống này đan xen lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cuối cùng lấy hệ thống Tịnh Độ làm chủ quy.
Tư tưởng Bất Nhãi là nền tảng cơ bản của Phật giáo Đại thừa. Tính “Không” của Bất Nhãi không phải là “Đoạn Không” và “Ngoan không” mà là “Duyên sinh tính không”. Không phải phủ định sạch trơn các pháp nên nói “Không”, mà cho rằng các pháp do nhân duyên sinh, tính của nó vốn không có thực thể (thật ngã). Ngay trong tính Không của Bất Nhãi đã bao hàm tư tưởng “Diệu Hữu”.
Hệ thống Hoa Nghiêm từ một điểm cơ bản đó phát huy ra; từ lập trường “Tịnh tâm duyên khởi” mà triển khai rộng lớn tư tưởng diệu hữu thành “nhất chân pháp giới”. Toàn pháp giới đều là pháp thân Phật Tứ Lô Gia Na hiện hiện, pháp thân thanh tịnh biến mãn khắp pháp giới. Thập Huyền Môn của Hoa Nghiêm phản ánh sự huyền diệu của thế giới Hoa Tạng.
Hệ thống Pháp Hoa thể hiện bản hoài từ bi hóa độ của Đức Thế Tôn, khiến Tam thừa trở về Nhất Phật thừa. Chẳng hạn những Bồ tát có thể thành Phật mà ngay cả các Đệ tử Thanh văn Tỷ kheo, Tỷ kheo-ni, cho đến cả sức sinh như Long Nữ Đề đều được thụ kỳ thành Phật. Đây là biểu hiện của bản nguyện độ tất cả chúng sinh không khác gì cốt tủy của Phật pháp.
Tứ đại nguyện của Phật A Di Đà và sự liên kết với Tịnh Độ tư tưởng Phật giáo Đại thừa
Hệ thống Tịnh Độ nhằm chỉ thông giải quyết vấn đề sinh tử ngay trong đời hiện tại mà hình thành bản nguyện của chư Phật và các cõi nước Tịnh Độ. Đó chính là bản hoài cơ bản mà chư Phật xuất thế độ sinh. Sự kiện lập bốn hệ thống đều nhằm mục đích độ khắp chúng sinh đều thành quả Phật. Do đó, hệ thống Bất Nhãi, hệ thống Pháp Hoa và hệ thống Hoa Nghiêm đều đặc biệt coi trọng tư tưởng “Niệm Phật tam muội” và cầu sinh Tịnh Độ.
Hệ thống Tịnh Độ nhỏ sự nhất quán của ba hệ thống trên nên phát triển và lưu truyền rộng khắp. Ví dụ hệ thống Bất Nhãi coi trọng sự phát thụ nguyện độ sinh của Bồ tát, một đặc điểm này có sự liên quan mật thiết đến 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà đã phát ra trong khi tu Bồ tát hành. Do đó, tư tưởng Bất Nhãi đã hỗ trợ cho sự hình thành đại nguyện lợi tha của Bồ tát.
Tóm lại: Tư tưởng “Tha lực bản nguyện” của Tịnh Độ tông, tuy đã có manh nha trong kinh Bản Sinh, nhưng lý luận về Bồ tát hành của Bất Nhãi, sự đặc biệt chuyên hướng tích cực (mười đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền đều quy hướng về thế giới Cực Lạc) thì cần đến sự ủng hộ của các hệ thống trên. Vì thế tạo thành tư tưởng “nương vào Phật lực, niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ”.
Với từ bi nguyện lực phải đợi đến khi tư tưởng Bất Nhãi, Pháp Hoa hình thành thì mới được sự hỗ trợ đắc lực để kiến lập, lại do tư tưởng Hoa Nghiêm mà tạo nên sự chuyên hướng tích cực đặc biệt (mười đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền đều quy hướng về thế giới Cực Lạc). Do đó tạo thành tư tưởng “nương vào Phật lực, niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ” một cách rõ ràng và có hệ thống.
Tịnh Độ tông với những giáo lý sâu sắc về bi mẫn độ tất cả chúng sinh không những phù hợp với căn cơ của người học Phật Việt Nam mà còn là con đường tu tập phù hợp nhất cho người thế sự. Trên con đường tu tập này, người tu tập không cần phải tách rời thế sự mà chính ngay trong cuộc sống hằng ngày, qua việc niệm Phật, hành thiện, có thể tạo duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc, nơi tiến hành tu tập hoàn mỹ để cuối cùng thành Phật.
Giáo pháp Tịnh Độ chứng tỏ rằng đường tu của chư Phật không nằm ngoài con người. Mỗi người tu tập theo Tịnh Độ pháp môn đều được nuôi dạy bởi nguyện lực của Phật A Di Đà, được hỗ trợ bởi cõi nước Tịnh Độ để tiếp tục hành trì và thành tựu giác ngộ. Đây chính là lý do Tịnh Độ tông lưu truyền rộng rãi, trở thành một trong những phương pháp tu học phổ biến nhất trong Phật giáo Việt Nam hiện đại.
(Còn tiếp)
Ghi chú tham khảo:
- Kinh Ban Đàn Tam Muội (Sukhāvatīvyūha Sūtra)
- Đại Trí Độ Luận của Bồ tát Long Thụ
- Thập Trụ Tứ Bá Sa Luận
- Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sūtra)
- Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra)
- Bộ luận Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Vãng Sinh Kệ của Bồ tát Thiện Thân