Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Hiện Tượng Tự Tử Dưới Góc Nhìn của Tâm Lý Học và Phật Giáo

Mỗi người sống trên đời này đều phải đối mặt với những lúc chịu đựng nỗi khổ đau. Nhiều trường hợp con người bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn đến nỗi cảm thấy mất hết hy vọng, không còn lối thoát nào. Chính trong những tình huống này, một số người chọn con đường tự tử—coi đó là giải pháp cuối cùng để thoát khỏi nỗi đau. Vậy tự tử là gì, nó xuất phát từ nguyên nhân nào, và cả tâm lý học lẫn Phật giáo nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

Thực Trạng Tự Tử Trên Toàn Thế Giới

Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, mỗi năm có hơn 1.500.000 người tự tử, xếp thứ 10 trong những nguyên nhân dẫn đến tử vong. Đáng chú ý, đối với độ tuổi thanh thiếu niên và người dưới 35 tuổi, tự tử là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Con số này tăng lên liên tục trong thời đại hiện nay, phản ánh một vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng của xã hội hiện đại.

Tự tử là hành động cố ý giết hại bản thân mình, là cách cố ý cướp đi sinh mạng của chính mình. Sinh mạng có giá trị vô cùng lớn, bất kỳ ai cũng mong muốn sống và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng vì sao lại có những người tự mình tìm đến cái chết, tự mình kết liễu sinh mạng của mình? Liệu tâm lý học và Phật giáo có thể nhìn nhận vấn đề này như thế nào, và có thể đưa ra những giải pháp để giải quyết cho vấn nạn này?

Sách hay về Phật giáo với kiến thức sâu sắc về tâm lý và giáo lýSách hay về Phật giáo với kiến thức sâu sắc về tâm lý và giáo lý

Quan Điểm Của Tâm Lý Học Về Tự Tử

Trong tâm lý học, có nhiều quan điểm, nhiều khái niệm khác nhau về tự tử. Nhà tâm lý học người Mỹ Edwin Shneidman định nghĩa tự tử là hành động tự làm tổn thương, cố ý chấm dứt sinh mạng của bản thân. Tự tử không phải là một chứng bệnh (mặc dù nhiều người nghĩ vậy); nó không phải do bất bình thường về mặt sinh học; cũng không phải là hành động vô đạo đức hay vi phạm pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Charles Bagg, chuyên gia tâm lý người Anh, cho rằng tự tử là hành động cướp đi sinh mạng của bản thân một cách có chủ tâm. Hành động này có thể là hậu quả của các chứng bệnh tâm thần và cũng có thể là hậu quả của những đương cơ khác; những đương cơ này không nhất thiết phải liên quan đến các chứng bệnh tâm thần, nhưng chứng mạnh hơn cả bản năng sinh tồn của con người.

Walter Hurst, nhà tâm lý học người New Zealand, cho rằng việc đưa ra quyết định tự tử thường bị thúc đẩy bởi ý muốn chấm dứt sự sống hơn là muốn chết. Tự tử là một sự lựa chọn quyết liệt khi phải đối mặt với nỗi đau khổ cùng cực, dường như vượt quá mức chịu đựng của cá nhân và tự thân không thể nào giải quyết được.

Theo định nghĩa của Edwin Shneidman trong cuốn sách “Definition of Suicide” (1985), tự tử là hành động tự kết liễu sự sống của bản thân một cách có ý thức. Người ta phải đối mặt với một tình cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp, và họ nhận thấy rằng tự tử là giải pháp tốt nhất để giải quyết khó khăn đó.

Thư viện tư liệu về Phật giáo từ các nhà nghiên cứu tâm lýThư viện tư liệu về Phật giáo từ các nhà nghiên cứu tâm lý

Nguyên Nhân Dẫn Đến Tự Tử

Khi nghiên cứu về các tác nhân có nguy cơ cao đối với hành vi tự tử, các nhà tâm lý học đã nhận ra nhiều căn nguyên dẫn đến hành vi này. Nhân tố quan trọng nhất và dẫn đến nguy cơ tự tử cao nhất là các chứng bệnh về tâm lý, những rối loạn tinh thần như bệnh tâm thần phân liệt, trầm cảm nặng, chứng rối loạn lưỡng cực (khi nào vui đến phát cuồng, khi nào buồn đến mức suy sụp tinh thần), sang chấn tâm lý mạnh (có thể do mất đi người thân yêu nhất, bị chối bỏ, bị hắt hủi…).

Lạm dụng các chất kích thích là nguyên nhân phổ biến thứ hai của việc tự tử. Việc lạm dụng các chất kích thích trong thời gian ngắn cũng như trong thời gian dài đều làm nguy cơ tự tử tăng lên. Hơn 50% số người tự tử có dính líu đến việc sử dụng bia rượu và ma túy. Hơn 25% số người nghiện ma túy và nghiện rượu tự tử. Trong lứa tuổi vị thành niên, việc lạm dụng bia rượu và ma túy chiếm tỷ lệ 70% số trẻ vị thành niên tự tử.

Tiếp theo là những nguyên nhân do các chứng bệnh về sinh lý, như bị mắc phải các chứng bệnh nan y, bị khuyết tật hoặc bị mất khả năng vận động do tai nạn đột ngột gây ra. Những thương tổn sinh lý này gây ra thiếu năng trong quá trình nhận thức và ảnh hưởng đến các hoạt động sống, các quan hệ xã hội của người bệnh. Chúng tác động ngược lại với xúc cảm, tình cảm, tâm trạng của người bệnh, khiến nguy cơ tự tử tăng cao.

Cuối cùng là những tác nhân thuộc về môi trường xã hội. Qua các nghiên cứu cho thấy, có những trường hợp tự tử xảy ra do những tác nhân, những sự kiện bên ngoài, những ảnh hưởng từ phía xã hội, chẳng hạn như bị người yêu chối bỏ, bị thầy cô giáo phạt, bị bạn bè trêu chọc, bị quấy rối, bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng hiếp, bị cha mẹ trách mắng, mất cha hay mẹ, cha mẹ ly hôn, mất việc, sát nghiệp, vợ nợ, phản bội… Đôi khi nhiều thanh thiếu niên tự tử vì một nguyên nhân rất lả dỏi, như thần tượng của họ (ngôi sao ca nhạc, ngôi sao điện ảnh, người mẫu thời trang…) bị chết hoặc tự tử, dẫn đến việc họ quyết định chết theo.

Biện Pháp Ngăn Ngừa Sự Tự Tử Trong Xã Hội

Để ngăn ngừa sự tự tử trong xã hội, các nhà tâm lý học đã đề xuất nhiều giải pháp. Cần tuyển chọn và đào tạo các nhóm tình nguyện viên để phục vụ việc tư vấn các vấn đề liên quan đến tính riêng tư của cá nhân. Phải nâng cao khả năng phục hồi tinh thần thông qua cách tư duy tích cực và các mối quan hệ xã hội tốt.

Giáo dục về sự tự tử, bao gồm cả những tác nhân có nguy cơ, những dấu hiệu cảnh báo, và khả năng sẵn sàng hỗ trợ cũng rất quan trọng. Phải nâng cao hiệu quả của các dịch vụ y tế và phúc lợi xã hội, cải thiện chất lượng đào tạo các chuyên viên y tế và thành lập các trung tâm tư vấn cho những người bị khủng hoảng.

Hạn chế vấn đề bạo lực trong gia đình, nhà trường và xã hội là cần thiết. Cần hạn chế việc lạm dụng các chất kích thích để giảm bớt những vấn đề rắc rối về sức khỏe tinh thần. Hạn chế khả năng tiếp cận dễ dàng đối với những phương tiện dùng để tự tử cũng là biện pháp quan trọng. Cần can thiệp trực tiếp đến những nhóm đối tượng có nguy cơ tự tử cao.

Bên cạnh đó, các chuyên gia tâm lý còn áp dụng các liệu pháp tâm lý để hỗ trợ ngăn ngừa, hạn chế tự tử. Cụ thể là sử dụng liệu pháp tâm lý nhóm, thông qua đó các chuyên gia tâm lý giúp những người có ý muốn tự tử có được những kỹ năng sống cơ bản trong đời sống hàng ngày. Nhóm hoạt động giúp người có nguy cơ tự tử nhận thức được những quyền cá nhân cơ bản của họ, hình thành các kỹ năng xoa dịu các xúc cảm, thiết lập những ranh giới trong các mối quan hệ xã hội, tham gia các hoạt động giải trí lành mạnh, và hình thành những kỹ năng giải quyết các vấn đề khó khăn của cuộc sống.

Hòa thượng An Thuần, bậc cao tăng thời cận đại Phật giáo Trung QuốcHòa thượng An Thuần, bậc cao tăng thời cận đại Phật giáo Trung Quốc

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Tự Tử

Theo Phật giáo, để đánh giá tính chất của một hành động, không chỉ dựa vào những biểu hiện bên ngoài, mà còn phải căn cứ vào đương cơ, yếu tố tâm lý bên trong. Đức Phật dạy rằng: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm là chủ, tâm tạo tác. Nói nắng và hành động với tâm thanh tịnh thì sự an lạc sẽ theo ta như bóng không rời hình. Tâm dẫn đầu các pháp, tâm là chủ, tâm tạo tác. Nói nắng và hành động với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ theo ta như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.” Do vậy, đánh giá tính chất của hành động tự tử cũng dựa theo nguyên tắc này.

Nếu như người nào chịu hy sinh thân mạng của mình để đem lại an vui, hạnh phúc cho số đông, cho tập thể, và họ chết trong tâm trạng an nhiên, tự tại, không bị khổ đau bức ngặt, không họ lo sợ, thì đây là một sự hy sinh vĩ đại, được mọi người ca tụng. Điển hình cho trường hợp này là hình ảnh các vị tu sĩ Phật giáo Việt Nam đã tự thiêu trong năm 1963 nhằm đòi lại sự công bằng, tự do và bình đẳng cho tín đồ Phật giáo nói riêng và cho nhân dân Việt Nam nói chung. Họ hy sinh để cho đất nước được yên bình, cho mọi người được ấm no, hạnh phúc. Hành động của họ được xem như hành động của bậc Bồ tát, xả thân vì tương lai của đạo pháp, vì lợi ích của mọi người.

Tuy nhiên, những trường hợp hy sinh như vậy là rất hiếm. Vấn đề cần bàn là đối với những trường hợp tự tử với tâm tiêu cực. Hầu hết những người tự tử đều mang tâm trạng khổ đau cùng cực, đều hoang mang, lo sợ. Họ tự tử không phải vì muốn chết mà là muốn trốn chạy khổ đau trong hiện tại. Tự tử đối với họ xem như là một lối thoát, một giải pháp cho tình cảnh bế tắc của bản thân. Hành động này hoàn toàn đi ngược lại với tinh thần của đạo Phật.

Đức Phật dạy rằng: “Thân người khó được”. Được là làm thân người là một điểm phúc vô cùng lớn, một khi bị mất đi thì không biết đời nào mới được sinh làm người trở lại. Dù biết rõ rằng tâm thần nằm uốn nó là giả tạm, nhưng cần phải nương vào thân này, dùng thân này là phương tiện để tu thân hình thiện, để tính hóa thân tâm và tu tạo các công đức. Nếu hủy diệt thân này thì biết lấy gì để làm phương tiện tu tập. Chính vì vậy mà Đức Phật đã chế giới không sát sanh, trong đó quan trọng nhất là không được giết hại sinh mạng con người.

Qua đó, chúng ta thấy rõ lập trường, quan điểm của Đức Phật về vấn đề giết hại sinh mạng, dù là sinh mạng của chính mình hay của người khác, dù cho tự mình giết, hỗ trợ người khác giết, khen ngợi việc giết hại, khuyến khích người khác tìm đến cái chết đều phạm tội ba-la-di, một trong bốn trường tội của một vị tu sĩ.

Lối Sống Ít Ham Muốn, Biết Vừa Đủ Như Một Phương Pháp Tích Cực

Lối sống “ít ham muốn, biết vừa đủ” cũng là một phương pháp tích cực để ngăn ngừa các tác nhân dẫn đến nguy cơ tự tử. Một khi con người biết áp dụng lối sống ít ham muốn, biết vừa đủ thì sẽ ít mong cầu, không chạy theo những thú vui trần tục, không bị những khoái cảm của các giác quan sai khiến. Nhờ vậy mà cuộc sống được thăng bằng hơn, ít đau khổ hơn. Càng nhiều ham muốn thì càng đau khổ nhiều, ít ham muốn thì sẽ ít khổ đau.

Khiêm hạ là một phẩm chất đạo đức tốt, người nào biết thực tập độc khiêm hạ thì người ấy sẽ hạn chế rất nhiều các nguy cơ dẫn đến tự tử. Tại vì, khi mình biết khiêm hạ thì tâm mình ít bị dao động khi bị người khác chê bai hay ruồng bỏ; khi biết khiêm hạ thì dù có được người khác tâng bốc, lòng mình vẫn bình thản, cho nên không dễ dàng bị người khác lợi dụng, không dễ dàng bị người khác dẫn dắt để làm những việc tổn hại đến thanh danh, đạo đức của mình, tổn hại đến người khác. Do vậy mà mình sẽ ít phạm lỗi lầm hơn, ít khi phải sống trong tâm trạng bị lương tâm cắn rứt, bị dằn váng đau khổ.

Một khi biết sống với tâm khiêm hạ thì chúng ta luôn biết nhìn lên những người hơn mình để phấn đấu vươn lên, để sống tinh tấn hơn; đồng thời biết nhìn xuống những người kém may mắn hơn mình để tự biết rằng mình vẫn còn nhiều hạnh phúc, biết cảm thông và sẻ chia với người khác. Chính vì biết nhìn lên và nhìn xuống như vậy, cho nên nếu không may lâm vào tình cảnh éo le, khổ đau cùng cực, mình cũng vẫn luôn lạc quan, tin tưởng, vẫn nuôi hy vọng về một ngày mai tươi sáng, vẫn cảm thấy mình còn hạnh phúc và may mắn hơn nhiều người, và phấn đấu để vượt qua chứ không quá bi thương, tuyệt vọng.

Đóng Góp Của Phật Giáo Cho Việc Giải Quyết Vấn Nạn Tự Tử

Trước hết, chúng ta dễ dàng nhận thấy năm giới căn bản của Phật giáo (không sát sanh, không trộm cắp, không tà hành, không nói dối trá, không dùng các chất kích thích) góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa và hạn chế nguy cơ dẫn đến tự tử. Trong đó, trực tiếp nhất là giới không sát sanh và không dùng các chất kích thích. Nếu một người biết tuân thủ giới không sử dụng các chất kích thích mà Đức Phật đã chế định thì sẽ giảm đi rất nhiều các nguy cơ dẫn đến tự tử.

Đối với giới không sát sanh cũng thế, nếu mọi người đều tuân thủ giới không sát sanh thì sẽ không xảy ra tự tử, vì ai cũng biết trân quý thân mạng, không noạ hại người, hại mình. Các vấn đề trộm cắp, quan hệ tình dục bất chính, nói những lời dối trá, thêu dệt, xuyên tạc sự thật cũng có thể xem là những tác nhân gián tiếp dẫn đến tự tử. Nếu như tuân thủ giới không trộm cắp, không tà hành, không nói dối trá thì cũng có nghĩa là chúng ta đã hạn chế được các tác nhân gián tiếp đó.

Các phương pháp thiền định và lối sống chính niệm là một trong những phương pháp quan trọng của Phật giáo góp phần tích cực vào việc ngăn ngừa và hạn chế các nguy cơ tự tử, đồng thời góp phần điều hòa và chữa trị những tổn thương tinh thần do hành động tự tử gây ra cho chính nhân nhân cũng như cho người thân của họ. Trước hết, việc thực tập thiền định và sống chính niệm sẽ giúp cho con người có được sự cân bằng tâm trí, nhận thức và đánh giá vấn đề đúng đắn, phù hợp hơn, đủ tính sáng tạo và nhanh nhạy để đưa ra những giải pháp hiệu quả cho việc giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống. Bên cạnh đó, thực tập thiền định và sống chính niệm còn giúp cho hành giả làm chủ được xúc cảm của bản thân, nhờ vậy mà rất hiếm khi xảy ra những hành động bốt phát, thiếu suy nghĩ.

Không nhất là như vậy, thiền định còn là một liệu pháp thư giãn rất hiệu quả, giúp giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống, không để cho những căng thẳng, những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong thân tâm ngày này qua ngày khác để rồi dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc.

Thêm vào đó, nếp sống hiền thiện mà Đức Phật dạy cũng là một phương pháp vô cùng hiệu quả trong việc ngăn ngừa tự tử. Nguyên nhân chính dẫn người đến quyết định tự tử là do khổ đau cùng cực, không còn lối thoát. Nếu biết sống hiền thiện, gieo các nhân lành thì chắc chắn sẽ gặt được quả lành, cuộc sống sẽ không bị đẩy vào những tình cảnh bi đát, tuyệt vọng. Hoặc giả nếu có bị lâm vào tình cảnh khó khăn thì cũng sẽ gặp được những con đường thoát hiểm, hoặc là được người khác cứu giúp, không đến nỗi phải tìm đến cái chết.

Hơn nữa, nếu chúng ta sống một cuộc sống hiền lương, đối xử thân thiện, có tình cảm nghĩa với mọi người thì sẽ được mọi người quý mến và đối xử tốt với mình, do vậy mà mình không có kế oán, gây thù với ai. Không có oán thù với ai thì đâu đến nỗi phải lâm vào cảnh bi đát, tuyệt vọng, đâu phải ôm hận trong lòng. Một khi không bị lâm vào cảnh khó khăn cùng cực, không đến nỗi hoàn toàn tuyệt vọng thì không có ai muốn kết liễu sinh mạng của mình cả.

Kết Luận

Vấn đề tự tử là một bóng đen của xã hội hiện đại, nhưng đây cũng là một lĩnh vực mà cả tâm lý học lẫn Phật giáo đều đã nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những hướng dẫn hữu ích. Cách nhìn nhận của Phật giáo về vấn đề tự tử không chỉ dừa lại ở phê phán, mà còn cung cấp những phương pháp, những con đường để giúp con người thoát khỏi nỗi khổ đau này.

Từ việc tuân thủ năm giới căn bản, sống một cuộc đời hiền thiện, thực tập thiền định và chính niệm, cho đến áp dụng lối sống ít ham muốn, biết vừa đủ và sống với tâm khiêm hạ, Phật giáo cung cấp cho con người những công cụ mạnh mẽ để ngăn ngừa tự tử và xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa.

Hy vọng rằng những giáo lý quý báu của Phật giáo sẽ tiếp tục được nhiều người biết đến, hiểu rõ và áp dụng vào trong đời sống hàng ngày của mình. Qua đó, Phật giáo không chỉ là một tôn giáo tâm linh, mà còn là một bộ giáo pháp có khả năng giải quyết những vấn đề nỗi lo của xã hội hiện đại, giúp con người chuyển hóa khổ đau thành lợi ích, sống hạnh phúc và an lành.

Related posts

Làm Thế Nào Để Nhận Biết Phật Tánh? Hành Trình Giác Ngộ Và Nhận Thức

Administrator

Chuyến Vãng Sanh của Lão Cư Sĩ Lữ Nhiên Phú (1929-2000)

Administrator

Cuộc Đời Như Giấc Chiêm Bao: Triết Lý Về Vô Thường Trong Bài Kệ Thiền Sư Pháp Loa

Administrator