Lời Phật dạy “Hãy tự chuyên niệm rằng, bốn đại trong thân, mỗi đại đều có tên riêng, hoàn toàn vô ngã. Ngã vốn không có chứng chỉ như huyền” đã dẫn dắt hàng triệu Phật tử nhận thức sâu sắc về bản chất Không của mọi pháp. Đó chính là tinh hoa của tư tưởng Bát Nhã – một tư tưởng sâu sắc, xuyên suốt toàn bộ giáo pháp của Đức Phật từ khi Ngài thuyết pháp tại Vườn Nai cho đến khi nhập Niết-bàn.
Tư tưởng Bát Nhã hay còn gọi là “Ngũ uẩn giai không” không chỉ là một học thuyết phương tiện mà là tinh túy của chánh pháp Phật đà, xuyên suốt khắp mỗi thời thuyết pháp. Từ các bài giảng đầu tiên tại Vườn Nai, qua những lần thuyết pháp tại Linh Thứu cho đến rừng Sa La nơi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, tư tưởng này luôn hiện diện như một luồng sáng dẫn đường cho nhân loại.
Tư Tưởng Bát Nhã Trong Kinh Điển Nguyên Thủy
Ngay trong thời thuyết pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn tại Vườn Nai, Ngài đã gửi năm anh em Kiều Trần Như thông điệp sâu sắc về con đường tu hành. Lời Phật dạy bảo: “Quý vị hãy tự bỏ hai cực đoan về thực hành quá độc ác và quá thoải mái, rồi tiếp theo Ngài giảng giải cho năm anh em Kiều Trần Như về Tứ Thánh Đế và Ngũ uẩn giai không.”
Tư tưởng Bát Nhã nên biểu hiện qua khái niệm “Ngũ uẩn giai không” – tất cả năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều vô ngã, không có tự tính. Khái niệm này không phải là vô hữu tính, mà là phủ định sự tồn tại của một tự tính bất biến, độc lập trong mọi pháp. Đây là lõi lòng của Phật pháp, đốc thúc mỗi Phật tử hôm nay hãy nhìn thẳng vào bản chất thực tế của tâm và thế giới.
Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn 200 năm, các Thánh đệ tử kết tập kinh điển nhiều lần khác nhau. Tư tưởng Bát Nhã nằm sẵn trong các kinh điển A含 của Bắc Phán và Pali của Nam Phán. Tuy nhiên, khi Phật giáo phát triển sâu rộng, tiếp cận mỗi thành phần xã hội, tư tưởng KHÔNG của Bát Nhã được các Tổ Sư triển khai và hình thành có hệ thống, đặc biệt vào thời đại Kaniska.
Trang bìa một bản kinh Bát Nhã cổ được lưu giữ tại thư viện Phật giáo
Vào thời kỳ Hậu Bộ và Đại Chúng, các học thuyết về tư tưởng KHÔNG phát triển mạnh mẽ. Hậu Bộ nhấn mạnh “Ngã không, pháp hữu”, trong khi Đại Chúng lại hướng tới “Quá vị vô thể, hiện tại hữu thể”. Đây là những nỗ lực đầu tiên trong việc phát triển và giải thích sâu sắc tư tưởng Bát Nhã từ kinh điển ban đầu.
Sự Phát Triển Của Tư Tưởng Bát Nhã Qua Các Tông Phái
Khi Phật giáo Nhật thuyết hình thành với chủ trương “Tam thế chỉ pháp giả danh vô thể”, tư tưởng Bát Nhã đã được nâng lên một tầm cao mới. Các tông phái Phật giáo tiếp tục phát triển từ tư tưởng này thành 20 hoặc 24 tông phái, mỗi tông có cách hiểu riêng về Không tính của mọi pháp.
Vào thế kỷ thứ hai Tây lịch, khi Mã Minh ra đời với học thuyết “Chỉ pháp thực tướng”, “Vận hữu duyên khởi”, “Chơn như môn, sinh diệt môn” và “Vận pháp duy tâm”, tư tưởng Bát Nhã bắt đầu được làm sáng tỏ hơn. Đến thế kỷ thứ 3, khi Long Thọ ra đời, Trung Luận, Đại Trí Độ Luận của Tây Long Thọ đã phát huy tư tưởng KHÔNG của Bát Nhã đến cực điểm.
Tượng Bát Nhã Bồ Tát với ánh sáng hiện đại tượng trưng cho sự giác ngộ
Qua các bộ luận này, chúng ta nhận thấy rõ ràng rằng các kinh điển thuộc hệ Bát Nhã đã được các Tổ Sư kết tập trước thời đại của Long Thọ. Đây chính là bằng chứng lịch sử cho thấy tư tưởng Bát Nhã đã được hệ thống hóa và phát triển liên tục qua nhiều thế hệ.
Truyền Bá Tư Tưởng Bát Nhã Sang Trung Hoa
Vào thế kỷ thứ 3, Chu Sĩ Hình là vị cao tăng người Bạc Xứ đã chuyên giảng dạy kinh Đạo Hành Bát Nhã và du học Ấn Độ vào năm 260 Tây lịch. Đây là khởi đầu của quá trình truyền bá tư tưởng Bát Nhã sang Trung Hoa một cách có hệ thống.
Từ Ấn Độ đến Trung Hoa, bản kinh của Phật được dịch sớm nhất tại Trung Hoa là Kinh Tứ Thập Nhị Chương, do Ngài Ca Diếp Ma Đăng và Trúc Pháp Lan dịch, lưu truyền vào thế kỷ đầu Tây lịch. Nếu đọc kỹ bản kinh này, ta thấy đó là bản kinh tổng hợp, từ giáo lý Nguyên thủy đến Đại thừa, và tư tưởng Bát Nhã cũng đã được chuyên chở trong bản kinh này.
Cụ thể, tư tưởng Bát Nhã ta đọc ở chương 18 và chương 20 sẽ thấy như sau:
Phật dạy: “Hãy tự chuyên niệm rằng, bốn đại trong thân, mỗi đại đều có tên riêng, hoàn toàn vô ngã. Ngã vốn không có chứng chỉ như huyền”.
Chương hai của kinh này đã giải thích KHÔNG qua ý nghĩa của Đạo như sau: “Người xuất gia làm sa môn là muốn đoạn trừ dục vọng, loại bỏ khát ái, tự biết nguồn tâm, đạt đến lý tá tính sâu thẳm của Phật. Giác ngộ được pháp vô vi, ở nơi tâm tự mình thấy không có số đặc, ở ngoài cảnh tự mình thấy không có số câu, tâm hằng tự tại, không bị trời buộc bởi đạo và nghiệp, không còn khởi niệm, không còn tác ý, không còn pháp tu, không còn quả chứng, các đồ vị tu tập không cần trải qua mê tự nó tội thường, ấy gọi là Đạo vậy”.
Các bộ kinh Bát Nhã được sắp xếp theo thứ tự lịch sử truyền bá
Dù tư tưởng Bát Nhã đã hàm chứa trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và đã được lưu truyền tại Trung Hoa vào thế kỷ đầu, nhưng vào năm 172 Tây lịch, Ngài Chi Lâu Ca Sâm mới bắt đầu dịch kinh Đạo Hành Bát Nhã và hoàn thành năm 179 Tây lịch. Đây là một bản kinh thuộc văn hệ Bát Nhã được dịch sang Hán văn sớm nhất, hiện có ở Đại Tạng Tân Tu 8, trang 425.
Thế kỷ thứ 4, Ngài Câu Ma La Thập đến Trung Hoa dịch các kinh, trong đó có Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa và Bát Nhã Tâm Kinh hay gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đa Đại Minh Chủ Kinh. Đây là những dịch bản quan trọng góp phần lan tỏa tư tưởng Bát Nhã sâu rộng tại xứ Trung Hoa.
Các Trường Phái Hiểu Biết Về Bát Nhã Tại Trung Hoa
Vào thế kỷ thứ 4, dưới thời nhà Tống Liu (420-478 Tây lịch), xuất hiện bảy trường phái Bát Nhã về KHÔNG:
Thứ nhất – Thích Đạo An: “Bản Vô”. Ý là các pháp vốn KHÔNG, nên KHÔNG.
Thứ hai – Trúc Pháp Thần: “Bản Vô Dị”. Ý là tất cả pháp vốn không khác, nên KHÔNG.
Thứ ba – Chi Đạo Lâm: “Không tức Sắc”. Ý là KHÔNG chính là Sắc.
Thứ tư – Vu Pháp Khai: “Tam Giới Không”. Ý là diệt trừ mê lầm của vô minh, hoặc diệt trừ mê lầm của thức, thì thấy rõ ba cõi là KHÔNG.
Thứ năm – Thích Đạo Nhất: “Huyền Hòa Không”. Ý là huyền hòa là KHÔNG.
Thứ sáu – Trúc Pháp Ôn: “Tâm Vô”. Ý là Tâm KHÔNG thì gọi là KHÔNG.
Thứ bảy – Vu Đạo Thuỷ: “Duyên Hội Không”. Ý là do Nhân duyên tập khởi, nên gọi là KHÔNG.
Bảy trường phái hiểu biết về Bát Nhã được các Tổ Sư phát triển tại Trung Hoa
Sau thời kỳ này, các dịch bản Bát Nhã và Bát Nhã Tâm Kinh tiếp tục xuất hiện vào đời Đường do các Ngài: Pháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi Ngôn, Trí Tuệ Luận, Pháp Thành và Ngài Huyền Tráng đã dịch. Đáng chú ý, ngài Huyền Tráng và ngài Pháp Thành đã dịch hoàn thành bộ Đại Bát Nhã 600 cuốn, một công trình lớn lao góp phần định hình tư tưởng Bát Nhã cho thế hệ Phật tử sau.
Bát Nhã Tâm Kinh Từ Nhà Minh Đến Nhà Thanh
Bát Nhã Tâm Kinh đến đời Nhà Minh (1368-1628) đã trở thành những khóa tổng công phu hàng ngày của các tự viện cho đến cả đời Thanh (1610-1902). Những vị Tháy cao tăng như Ngài Khuy Cơ – học trò của Ngài Huyền Tráng, Ngài Viên Tráng đời Đường, Ngài Pháp Tạng đời Đường, Ngài Sư Hội đời Tống – đều có những tác phẩm chú giải đáng quý về kinh này.
Bát Nhã Tâm Kinh còn có gần bốn mươi nhà sư giải và chủ giải nữa. Trong đó, hai mươi bản chủ giải được thực hiện vào thời Nhà Minh (1368-1628), như các Ngài Hoàng Tán, Trí Học, Quán Hành… hiện còn lưu giữ trong Đại Tạng Tân Tu và Tục Tạng Kinh. Sự phong phú này chứng tỏ rằng tư tưởng Bát Nhã không chỉ là di sản lịch sử, mà còn là ngọn lửa sáng suốt các thế hệ Phật tử tu hành.
Truyền thống học Bát Nhã này đã trở thành bộ mặt văn hóa Phật giáo Trung Hoa, phản ánh sâu sắc nhu cầu tinh thần của nhân dân Trung Hoa. Từ các vị Tháy cổ cho đến nay, tư tưởng Bát Nhã vẫn còn sáng tỏ, dẫn dắt hàng triệu Phật tử trên con đường nhận thức bản chất Không của mọi pháp.
Ý Nghĩa Tâm Linh Của Tư Tưởng Bát Nhã Trong Đời Sống Hiện Nay
Tư tưởng Bát Nhã không phải là một học thuyết trừu tượng, mà là một kim chỉ nam thực tế cho tu hành ngày nay. Khi hiểu rõ bản chất Không của mọi pháp, Phật tử sẽ từ bỏ được những chấp thủ, si mê về ngã, về của cải, về địa vị xã hội. Từ đó, tâm hồn trở nên nhẹ nhàng, an tĩnh, và thực sự tự do.
Lời Phật dạy “Hãy tự chuyên niệm” khuyến khích mỗi Phật tử không nên chỉ tin theo lời người khác, mà phải tự mình kiểm chứng, tự mình thực hành. Đó là tinh thần của Phật giáo – một tôn giáo khoa học, thực tế, không yêu cầu người ta nhận lấy bất cứ điều gì mà không kiểm chứng.
Trong cuộc sống hiện đại với vô số thử thách, tư tưởng Bát Nhã dạy chúng ta nhìn sâu vào bản chất các sự vật và hiện tượng. Khi hiểu được rằng sắc là Không, Không là sắc, thì chúng ta không còn bị cuốn hút bởi những ảo tưởng, những ước muốn vô tận. Chúng ta sẽ tu tập một cách trí tuệ, hiểu biết, dẫn đến chứng đắc Niết-bàn thanh tịnh.
Tư tưởng Bát Nhã từ Ấn Độ đã được các Tổ Sư Trung Hoa phát triển, giáo dạy, và truyền lại cho chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta lấy tư tưởng này làm hạt nhân của tu hành, liên tục suy gẫm, quán chiếu, thì chắc chắn sẽ đạt được những thành tựu tu hành thực sự, không chỉ là sự bề ngoài mà là sự biến hóa toàn diện của tâm linh.
Tài liệu tham khảo:
- Phật Thuyết Ngũ Uẩn Giai Không Kinh, Tập 102, tr.499, Đ.T.T.T.2
- Thang Dụng Đương, Hán Ngật Lương Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử, Bắc Kinh, Trung Hoa Thư Cục, tr 167-202
- Bát Nhã Tâm Kinh Chủ Sơ và các bản chú giải lịch sử trong Đại Tạng Tân Tu 33, tr 523-569, và Tục Tạng Kinh 41