Nhiều người khi đề cập đến Phật giáo thường gán cho hai chữ bi quan, yểm thế. Theo quan niệm của họ, Phật giáo chỉ dành riêng cho những người già cả, không thích hợp với tuổi trẻ là tuổi hăng say hoạt động. Họ lý luận rằng, nếu đầu óc luôn luôn chứa đựng ý niệm khổ, thì con người sinh ra chán nản, tiêu cực và lười biếng.
Thực tế chữ “khổ” trong đạo Phật không chỉ có nghĩa là đơn đau rên siết. Khổ dù được dịch từ thuật ngữ Pali “Dukkha” – chân lý đầu tiên trong Tứ Diệu Đế, nhưng ít khi được hiểu một cách đầy đủ chính xác. Vì dịch Dukkha là khổ nên nhiều người cho rằng Phật giáo chủ trương đời chỉ là bể khổ. Lỗi phiên dịch và giải thích này rất sai lạc, đã gây ra ngộ nhận Phật giáo là bi quan yểm thế, làm tổn hại đến hình ảnh của chánh pháp.
Khổ – Khái Niệm Sâu Hơn Suy Nghĩ Thông Thường
Thực ra, khổ chỉ là một trong nhiều nghĩa của Dukkha. Ngoài ra còn có các nghĩa khác như bất toàn, hư dối, giả tạo, bất an, tâm bộ, trống rỗng, vô nghĩa, bất toại, không đáng tâm cầu, không nên bám víu, không nên tin cậy v.v. Rất khó tìm ra một chữ thích hợp để dịch trọn nghĩa từ Dukkha.
Khi nói đến Dukkha, Đức Phật không phủ nhận có hạnh phúc trong cuộc sống này. Ngài công nhận có nhiều loại hạnh phúc tinh thần và vật chất như hạnh phúc của sự thỏa mãn giác quan, hạnh phúc của đời sống gia đình thuận hòa hiếu thảo, hạnh phúc của sự thành đạt, hạnh phúc của lòng từ thiện vị tha v.v. và cao hơn nữa là hạnh phúc của đời sống độc cứ thiên tính, hạnh phúc của sự thoát khỏi rằng buộc, hạnh phúc của đời sống nhẹ nhàng thanh thoát, an nhiên tự tại v.v.
Đạo Phật không phủ nhận hạnh phúc mà hướng con người tới hạnh phúc bền vững
Ngay cả những hạnh phúc trên cõi trời Dục giới, những cảnh thiền hữu sắc, vô sắc với tâm an lạc, thuần tịnh cũng không nằm ngoài Dukkha. Bởi vì chúng đều là đối tượng của sự đổi thay, bất toàn, tâm bộ… không nên tâm cầu, không nên bám víu… Nghĩa là tất cả hạnh phúc nào thuộc về thế gian đều nằm trong Dukkha. Như vậy, Dukkha không chỉ có Khổ mà còn bao hàm cả Lạc và Hỷ trong Tam giới.
Đức Phật – Vị Lương Y Của Tâm Thức Con Người
Đức Phật là vị lương y tâm, khi thấy căn bệnh khổ của chúng sanh, chỉ có một tâm nguyện duy nhất là tìm ra nguyên nhân và phương thuốc để điều trị căn bệnh ấy hầu giúp họ thoát khỏi nhứng cơn đau đớn quái gắt của bệnh khổ. Đó không phải là thái độ bi quan, mà dám đối diện với sự thật để tìm cách cứu chữa. Đặt trước bệnh khổ ấy của nhân loại, chúng sinh, Đức Phật đã quán chiếu với trí tuệ để thấy ra nguyên nhân của bệnh khổ và tìm phương giúp chúng sinh thoát khỏi căn bệnh mãn tính đã đeo đẳng họ từ vô lượng kiếp.
Chính vì thế, giáo pháp của Đức Phật là một triết lý sáng suốt, không phải bi quan. Đó là thái độ của một người bác sĩ tuyệt vời đối với bệnh nhân của mình. Sau khi chứng ngộ Vô Thường Chính Đang Giác – tức là thấu triệt chân tính của vạn pháp, Ngài đã cùng hàng Thanh Văn để tích cực đem chân lý ấy giáo hóa cho đời, đem lại an lạc cho nhiều người.
Tùy căn cơ trình độ của mỗi người, Ngài chỉ dạy những cách hành đạo riêng, nhưng chung quy vẫn đưa đến một mục tiêu duy nhất là thoát khỏi khổ đau. Ngài luôn chỉ cho mỗi người thấy rằng: đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ và đây là con đường diệt khổ. Chúng ta có thể nói tâm muốn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật chỉ nhằm mục tiêu “thoát khỏi vô minh ái dục, phiền não khổ đau”. Bệnh khổ của chúng sinh không sao kể xiết, nhưng cái khổ trường đại nhất của chúng sinh là còn trầm luân trong vòng sanh tử.
Nguyên Nhân Thật Sự Của Khổ – Vô Minh
Có thân táo xứ pháp phải có khổ. Nhưng thực ra cái khổ của thân không đáng kể, chính vì chấp rằng thân này của Ta, hay nói một cách khác là ngã chấp, mới đem lại khổ đau thật sự. Nói đến ngã chấp chúng ta phải nói đến nguyên nhân sâu xa của nó là vô minh hay cụ thể là tài kiến. Khi tâm còn tối mê, không sáng suốt thì vẫn còn tạo nghiệp bất thiện, và phải tái sanh để chịu quả.
Bậc Thánh nhân không sợ quả mà chỉ sợ nhân. Diệt được gốc rễ của nhân phiền não, thì diệt được khổ. Diệt khổ là diệt ngay cái nhân khiến cho những bất thiện pháp dậy khởi. Khi bất thiện pháp không còn đủ sức khuây đảo, khi đã diệt trừ được nguồn gốc sinh khổ, lúc ấy chắc chắn sẽ được thoát khỏi khổ đau.
Ba Phương Pháp Chính Để Diệt Khổ
Phương pháp diệt khổ của đạo Phật có rất nhiều nhưng tuy trung có thể tóm tắt vào ba điểm chính yếu sau đây:
Thứ nhất: Giữ Giới Luật
Ngăn ngừa những bất thiện pháp biểu hiện qua thân khẩu bên ngoài. Muốn ngăn ngừa ác pháp không cho điều động thân khẩu chúng ta cần phải giữ Giới. Giới luật là hàng rào bảo vệ, giúp chúng ta tránh xa những hành vi bất thiện, từ đó không tạo tác nhân khổ.
Thứ hai: Tu Tập Thiền Định
Chế ngự những bất thiện pháp khởi động trong tâm. Muốn chế ngự những bất thiện pháp là làm khuây đảo tâm chúng ta cần tu tập thiền định. Thông qua thiền định, tâm dần trở nên tập trung, thanh thoát, không còn bị các tà kiến chi phối. Thiền định giúp tâm tĩnh lặng, từ đó không sinh ra những tư duy bất thiện.
Thứ ba: Phát Triển Trí Tuệ
Diệt trừ phiền não ngụ ngập sâu kín trong vô thức mà chính yếu là vô minh, vì vô minh là đầu mối mọi khổ đau của chúng sinh. Muốn diệt tận phiền não ngụ ngập nói trên là vô minh chúng ta cần phải thực hành thiền tuệ Vipassanā. Thông qua thiền tuệ, chúng ta nhìn thấu chân tính của các hiện tượng, từ đó tự động diệt trừ được vô minh – nguyên nhân gốc rễ của tất cả khổ đau.
Bát Chính Đạo – Con Đường Thoát Khỏi Khổ
Ba phương pháp trên thực chất được tổ chức trong Bát Chính Đạo – con đường được Đức Phật chỉ ra để giúp con người thoát khỏi vòng luân hồi khổ đau. Bát Chính Đạo bao gồm: Chính Kiến, Chính Tư Duy, Chính Lời Nói, Chính Hành Động, Chính Sinh Kế, Chính Tinh Tấn, Chính Chánh Niệm và Chính Định. Mỗi yếu tố này đều có mục đích chung là giúp chúng ta tránh xa bất thiện, hướng tới thiện, và cuối cùng là thoát khỏi khổ đau.
Tóm lại, khổ mà Đức Phật đề cập trong khổ đế là cái khổ do vô minh ái dục, phiền não tạo ra. Nên muốn hết khổ thì phải diệt tận vô minh ái dục. Phương pháp hữu hiệu nhất để diệt trừ vô minh ái dục là thực hành Bát Chính Đạo – con đường mà Đức Phật đã khám phá dưới cây Bồ-đề.
Kết Luận – Phật Giáo Là Triết Lý Sáng Suốt
Nhân loại từ xưa tới nay vẫn luôn tìm kiếm con đường dẫn tới hạnh phúc thật sự. Phật giáo không những đã tìm ra nguyên nhân căn bệnh của chúng sanh mà còn có cả một kho tàng linh phương, điều dưỡng để chữa trị bệnh khổ cho chúng sanh. Không chỉ chẩn đoán bệnh, Đức Phật còn chỉ ra phương thuốc cụ thể mà bất kỳ ai, ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể áp dụng.
Đó là thái độ sáng suốt, trầm tĩnh, tích cực, vị tha, dám đối diện với sự thật để giải quyết tận gốc, chủ không phải bi quan yểm thế hay giả vờ lạc quan để tự đánh lừa mình. Phật giáo là khoa học của tâm, là y học của linh hồn, hướng dẫn chúng ta cách sống một đời ý nghĩa, bình yên và giải thoát. Khi hiểu đúng giáo lý này, chúng ta sẽ nhận thấy Phật giáo là nguồn sáng dẫn đường, giúp con người tìm được con đường dẫn tới hạnh phúc thật sự, hạnh phúc bền vững không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.