Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Cuộc Đời Thánh Tăng A Nan Đa Sau Khi Đức Phật Nhập Niết Bàn (Phần I)

Trong kho tàng giáo pháp Phật giáo, có rất nhiều vị đại tăng sư đáng để hậu thế noi gương. Một trong những vị đại tăng sư quan trọng nhất là Thánh Tăng A Nan Đa—cái tên này chiếm trọn vẹn vị trí nổi bật trong các kinh điển Phật giáo. Sự hiện diện của A Nan Đa không chỉ là một phần lịch sử Phật giáo, mà còn là một tấm gương sáng về sự tu hành, quyết tâm và tìm kiếm giải thoát. Bài viết này sẽ khám phá cuộc sống của vị Thánh Tăng này sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, một giai đoạn đầy thử thách nhưng cũng tràn đầy ý nghĩa về đạo pháp.

Giai Đoạn Tu Hành Khó Khăn Của A Nan Đa

Theo Tôn Tục ký ngôn (Theragathā) số 1035 và 1036, sau lễ Hóa Thân của Đức Phật, A Nan Đa đã trở thành ít nói và thích ẩn thân trong tính thật của mình. Một hôm ông tự thán tha rằng:

“Đạo huynh đã khuất bóng,

Tôn sư cũng mất rồi.

Hợp tan như giấc mộng,

Mình phải liễu thân thôi.

Gương là nhân không còn nữa,

Gương xấu thấy dầy đầy,

Tự mình lo tu sửa.

Thiền lực nhân nại xây,

Như cánh chim giữa gió.

Tổ là sức định tâm,

Lục căn gìn giữ nó.

Theo thiền pháp chủ nhằm!”

A Nan Đa tu hành trong rừng sâu sau khi Đức Phật nhập Niết BànA Nan Đa tu hành trong rừng sâu sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn

Sau khi Đức Phật Viên tích, A Nan Đa chứng kiến sự mất mát to lớn nhất trong cuộc đời tu hành của mình. Thánh Tăng này từng có cơ hội thường xuyên tiếp cận và nghe pháp từ chính Đức Phật, nhưng giờ đây, vị Thầy tối cao đã rời bỏ thế gian. Mặc dù đau thương, A Nan Đa quyết định tinh tấn hơn, vì ông nhận ra rằng chỉ còn lại một phần sự tu luyện là Giới và Giải thoát bản thân, theo như lời Phật dạy.

Từ đó, A Nan Đa tự biết rằng mình chỉ còn một phần sự là tinh tấn Giải thoát bản thân. Khi chia tay Trường lão Đại Ca Diếp, ngài đã khuyên A Nan Đa nên đến tính tu trong ngôi rừng thuộc địa phận Kosala, vì ở đó gần hai bộ tộc Mallas và Sakyans (dòng Thích Ca), ông sẽ được chỉ Phật nhiệt tình hộ độ. Lời khuyên này chứa đựng sự chăm sóc và tin tưởng vào khả năng tu hành của A Nan Đa.

Những Khó Khăn Từ Dân Chúng

Khi dân chúng trong các vùng phụ cận hay tin được Tế tử thân nhất và cũng là anh em chủ bác của Đức Phật vô ngụ tu trong rừng đó, họ kéo nhau đến thăm A Nan Đa rất đông. A Nan Đa tưởng chỉ có mình là người thương Đức Phật và Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên dai dăng thôi, nào ngờ chỉ Phật tự xung quanh rừng ông ở, cũng luyện tiếc ba bậc ấy vô cùng.

A Nan Đa gặp khó khăn khi dân chúng đến thăm quá đôngA Nan Đa gặp khó khăn khi dân chúng đến thăm quá đông

Lại nhằm lúc vua cha xứ Kosala Pasenadi được nhiều thần dân thương mến, cũng vừa bằng hạ, nên họ kéo nhau đến nhờ A Nan Đa an ủi họ, không nhất nhất vì sự khuất bóng của Đức Phật, và của hai vị Thánh Tăng Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, mà họ còn xin được an ủi vì sự bằng hạ của Thái Thượng Hoàng Pasenadi nữa. Vị cố Thái Thượng Hoàng nâng công nhân Đức bao nhiêu thì các Hoàng tử con ông lại tín ác, hiếu chiến bấy nhiêu, nên sự bằng hạ của Thái Thượng Hoàng đã làm cho toàn thể thần dân chịu một cảnh mất mặt rất lớn.

Bốn sự tế từ trần của Đức Phật, của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng như của Thái Thượng Hoàng Pasenadi đã xảy ra trong cùng một năm, nên ngày đêm dân chúng ở các vùng xung quanh ngôi rừng A Nan Đa ẩn tu, không chịu được những tiếc buồn dồn dập, liền kéo nhau đến tính thật của A Nan Đa khiến cho ông không bao giờ có độc. Ngoài ra, còn có một vị thần, sống trong rừng ấy hiện ra để lễ bái A Nan Đa. Vị thần này đã khen ngợi sự tiến bộ tâm linh của ông và khuyên A Nan Đa tính tâm bằng mấy câu kệ rằng:

“Giờ bên gốc cây ngồi yên tĩnh,

Tâm Ngài theo Thiền Định Niết Bàn!

Khuyên Ngài dạ chỉ có hoang mang

Tập trung ý chí linh quang sẽ bừng.”

A Nan Đa nhận được sự khuyến tạo từ vị thần rừngA Nan Đa nhận được sự khuyến tạo từ vị thần rừng

A Nan Đa được vị thần khích lệ như vậy thì tự kinh cảm, nên sau đó tinh tấn vô cùng. Vị này đã quyết định trịu tập chỉ Tứ kheo Thánh Tăng để lập lại những giáo lý và kinh luật Phật truyền. Theo đó khoảng năm trăm vị A la hán còn tại thế phải có mặt đông đủ, cộng thêm sự hiện diện của một phẩm Tăng là A Nan Đa. Vì ngoài A Nan Đa ra không có một Sa môn nào hữu phước được nghe hầu hết những bài pháp của Phật thuyết.

Sự Chuẩn Bị Cho Đại Hội Kết Tập Kinh Luật

Những tình huống chính trị của xứ Kosala nhất thời đang bấtổn, các vị Hoàng tử tranh nhau ngôi vua, nên địa điểm kết tập, Kinh Luật Phật giáo lần thứ nhất phải dời đến Vương Xá thành, thủ đô xứ Ma Kiếp Đà (Magadha) và đặt dưới sự che chở của vua A Xà Thế (Ajātasattu). Khi đến gần ngày kết tập kinh luật thì Anuruddha lại đề nghị: Sư đệ A Nan Đa chỉ được chấp nhận vào đại hội nếu đắc quả A la hán (Đại hội kết tập giáo điển lần thứ I, không có Tạng Luận, chỉ có Tạng Kinh và Tạng Luật mà thôi).

Anuruddha nhờ có Tha tâm thông, biết rõ sự quyết tâm của A Nan Đa ra sao, nên mới đề nghị như thế, để kích động và thúc giục Tôn giả A Nan Đa, tinh tấn hơn nữa, cho mau đắt đến Thánh quả Giải thoát. Sự khích lệ này không phải là sự sỉ nhục, mà là một phương tiện thông minh để giúp đồng tu của mình nhanh chóng thành tựu.

Chứng Đắc Quả Vị A La Hán

A Nan Đa lúc hay tin đó, ông không chỉ chẳng buồn giận chút nào, mà còn tình nguyện chăm chỉ tới đa, tận dụng khả năng Minh sát của mình, đã được Đức Phật đích thân chỉ dạy, để tiến lên Thánh quả Giải thoát. Ông bắt đầu tham học chính yếu, hôm sau liền tin tưởng rằng có thể đắc quả. Vào buổi bình minh ngày hôm sau, khi A Nan Đa đang an trụ trong một bậc Thiền thì ông chợt cảm thấy một cách không nghi ngờ rằng tâm tứ ông đã trở nên thông suốt mọi dục tính, phiền não nào biến mất. Ông trở thành một Thánh nhân A la hán.

Vào ngày đại hội kết tập kinh luật cũng đến. Địa điểm là một cái đường nằm sâu trong lòng núi, chỉ có một cửa và được khóa kín. Năm trăm vị Thánh Tăng A la hán phải dùng Thần thông để vô dự hội. Khi họ đã có mặt đầy đủ và chỗ ngồi của A Nan Đa còn bỏ trống; chỉ Thánh Tăng đang chờ đợi thì một luồng ánh sáng xuyên qua khe cửa, chiếu vào chỗ ngồi còn trống ấy, đồng thời A Nan Đa xuất hiện.

Vai Trò Quan Trọng Tại Đại Hội Kết Tập

Chỉ Thánh Tăng, nhất là Anuruddha và Đại Ca Diếp (Mahā Kassapa) thấy A Nan Đa đã viên tròn hạ hành nguyện, liền tán dương công đức và khai mạc đại hội. Lúc ấy nhằm mùa thu, nên chỉ phẩm Tăng các vùng phụ cận không thể đến, để lễ bái cộng đồng Thánh Tăng được. Còn chỉ phẩm Tăng ở xa thì tự nhiên phải vắng mặt.

Đại Ca Diếp được bầu là chủ tọa và diễn tiến cuộc kết tập kinh luật như sau:

1. Kết Tập Tạng Luật: Trường lão Đại Ca Diếp đã đặt những câu hỏi về mọi điều luật, đến Sa môn Upali, người được mệnh danh là “Kế nhớ rõ các pháp cấm.” Sa môn Upali này đã trả lời đầy đủ, nhắc lại cả lý do, địa điểm, thời gian và nhân chứng, khi Đức Bụt chế ra Giới luật ấy. Rồi cứ như thế mà tiếp tục, nên Tạng Luật đã được kết tập trước tiên.

2. Kết Tập Tạng Kinh: Tiếp theo Trường lão Đại Ca Diếp hỏi A Nan Đa về các kinh Phật đã thuyết. Những bài kinh dài, có chung sư đồ, được kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm (Dīgha Nikāya). Những bài kinh trung bình, cũng chung một sư đồ, gộp lại thành một bộ, gọi là Trung A Hàm (Majjhima Nikāya). Sau đó là những bài kinh ngắn, cũng chung sư đồ, xếp thành một bộ gọi là Tiểu A Hàm (Khuddaka Nikāya).

Đại hội kết tập kinh luật lần thứ nhất tại Vương XáĐại hội kết tập kinh luật lần thứ nhất tại Vương Xá

Chốt hết A Nan Đa nhắc đến những bài kinh rời rạc, khác sư đồ, để gom lại thành Tập A Hàm (Samyutta Nikāya), hay nhắc đến những bài được liệt kê bằng các chỉ số, sư đồ độc lập, gọi là Tăng Nhất Chi A Hàm (Anguttara Nikāya) v.v… Những bài kinh này được sắp xếp và phân loại cẩn thận, tạo thành một kho tàng kinh điển toàn vẹn, bảo đảm rằng giáo pháp của Đức Phật không bị thất lạc hay bị biến tướng qua thời gian.

3. Những Di Chúc Cuối Cùng: Sau khi Tạng Luật và Tạng Kinh đã được đọc kết đầy đủ, Ananda bày tỏ những lời di chúc của Đức Phật để lại. Ông thuật trước đại hội rằng Đức Bụt trước khi nhập Niết Bàn, đã cho phép Tăng chúng hủy bỏ những Giới luật không cần thiết. Nhưng đại hội Thánh Tăng đã không đồng ý, vì ý nghĩa của ba chữ “không cần thiết” chẳng có tiêu chuẩn rõ ràng.

Chủ tọa Đại Ca Diếp liền đề nghị:

“Nếu chúng ta hủy bỏ một số điều răn của Đức Phật thì các hàng tại gia sẽ dễ nghĩ, cho rằng chỉ Sa môn xuất gia, không bao lâu khi Đức Bụt Viên tích, đã bắt đầu biểng nhác, không muốn giữ Giới luật. Hơn nữa, Phật cũng không dạy rõ điều luật nào là điều luật không cần thiết. Tốt hơn hết là đừng hủy bỏ bất cứ pháp răn nào cả. Như vậy chúng ta sẽ chắc chắn không sợ là làm sai tôn ý của Đức Phật.”

Lời đề nghị của Đại Trường lão Ca Diếp đã được hoàn toàn Thánh Tăng chấp thuận, đồng thời cũng thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ giáo pháp Phật một cách vô cùng cẩn trọng.

Vai trò của A Nan Đa trong đại hội kết tập này là vô cùng quan trọng. Ông là người chứng thực các bài kinh và luật pháp, những lời dạy của Đức Phật mà ông đã nghe trực tiếp. Nhờ có trí nhớ tuyệt vời và sự cẩn thận, các bài kinh được kết tập một cách toàn vẹn và chính xác, tạo thành nền tảng cho Tam Tạng Kinh điển Phật giáo cho các thế hệ sao mai.

Cuộc đời của A Nan Đa sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn là minh chứng sinh động cho sức mạnh của đức tin, quyết tâm và tinh tấn trong tu hành. Từ cảnh sâu sắc buồn bã đến việc vượt qua những khó khăn, từ sự khích lệ của đồng tu đến việc chứng đắc quả vị A la hán, A Nan Đa đã cho chúng ta bài học quý báu về con đường tu hành Phật giáo. Ông không chỉ là nhân chứng lịch sử của giáo pháp, mà còn là hình mẫu sáng ngời cho tất cả những ai muốn theo đuổi con đường giác ngộ.

(Còn tiếp)


Tác giả: Hellmuth Hecker

Người dịch: Nguyễn Điều soạn (1991)

Related posts

Cư Sỹ Chính Trí Mai Thờ Truyền – Một Đấu Sỹ Phát Triển Phật Học Miền Nam

Administrator

Ý Nghĩa Quá Trình Tìm Đạo Và Tu Chứng Của Đức Phật

Administrator

Giết Kiến Báo Quả: Bài Học Về Nghiệp Báo Trong Phật Giáo

Administrator