Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Sự Hóa Độ Rộng Lớn và Cùng Khắp của Đức Phật

Tác vụ hóa độ của Đức Phật thực sự vô cùng rộng lớn và khó khăn, nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, nhờ lòng từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ ý chí duxng mãnh không thỏi chuyển mà Đức Phật đã hoàn thành sự vụ hóa độ của mình một cách viên mãn. Trong quá trình truyền đạo suốt 45 năm, Ngài đã tiếp cận mọi tầng lớp xã hội, từ vua chúa cho đến những người hèn hạ, với một nhân từ và sự tế nhị đáng ngưỡng mộ.

Để thực hiện sự vụ hóa độ này, Đức Phật đã tuân theo ba nguyên tắc cơ bản, tạo thành nền tảng cho tất cả hoạt động truyền dạy của Ngài. Ba nguyên tắc này không chỉ phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về bản chất con người mà còn thể hiện sự khôn ngoan siêu việt trong việc dẫn dắt các chúng sinh trở về con đường giải thoát.

Hóa Độ Theo Lớp Căn Cơ

Khi bắt đầu đi truyền đạo, ý nghĩ trước tiên của Ngài là tìm những người bạn đạo cũ để thuyết pháp. Những người bạn này gồm năm vị: Kiều Trần Nhu, Ức Bộ, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bắc Đỉnh. Bài thuyết pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế. Năm người này được khai ngộ và trở thành năm đệ tử đầu tiên của Ngài. Kế đó, Ngài thuyết pháp trong 3 tháng cho 55 người xin quy y theo Ngài và hợp với 5 người trong nhóm ông Kiều Trần Nhu thành 60 đệ tử. Sáu mươi đệ tử này, sau khi giữ đúng giới luật, được Ngài thử kỹ để đi truyền đạo khắp nơi.

Ngài rời Lộc Uyên đi về phía nam đến xứ Ưu Lâu Tân Loa và hộp phúc một vị tổ sư rất có uy tín của đạo Thích Lễa là ông Ma Ha Ca Diếp và hai em ông. Ông Ca Diếp mang tất cả 2.250 vị đệ tử của mình xin quy y theo Phật.

Nhớ lại lời hứn xưa với vua Tân Bạ Xa La, Ngài đi đến xứ Ma Kiết Đà và vào thành Vương Xá để độ cho vua. Vua Tân Bạ Xa La gặp lại Ngài vui mừng không xiết, truyền xây tịnh xá Trúc Lâm để thành Phật và chúng Tăng ở lại thuyết pháp độ sanh.

Trong lúc Phật ở tại tịnh xá Trúc Lâm, thì vua Tính Phán nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ giả đi thỉnh Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ. Những sứ giả này khi đến Trúc Lâm nghe Ngài thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thỏ giới xuất gia.

Đức Phật hóa độ những người bạn đạo cũ với sự từ bi và khôn ngoanĐức Phật hóa độ những người bạn đạo cũ với sự từ bi và khôn ngoan

Lần thứ mười, Tính Phán Vương sai một cận thần tín lành là ưu Đà Di mời thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương Xá trở về Ca Tỳ La Vệ, Đức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong vòng thời gian ngắn ngủi, Ngài cũng cảm hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này đều xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan Đà, A Nan Đà, A Nâu Lâu Đà, La Hầu La…

Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Đi đến thành Xá Vệ là kinh đô nước Kiều Tát La, thuộc quyền thống trị của vua Ba Tư Nặc. Ở thành này, có một đại thần tên là Tu Đạt Đà, giàu lòng bỏ thí cho kẻ bần cùng cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Cấp Cô Độc Trưởng. Ông rất ngưỡng mộ Đức Phật nên đã trút tất cả tiền của vương bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái Tử Kỳ Đà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh.

Được ít lâu, nghe vua Tính Phán đau nặng, sắp thắng hẳn, Đức Phật vội vã trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bệnh, Phật thuyết về “Lễ vô thường, khổ, không, vô ngã” cho vua nghe. Nghe xong, vua liền dứt hết phiền não, gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi bằng hẳn một cách âm ái.

Những câu dạy của Phật về vô thường khổ không vô ngã mang lại an lạc cho vua Tính PhánNhững câu dạy của Phật về vô thường khổ không vô ngã mang lại an lạc cho vua Tính Phán

Sau khi Tính Phán Vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là Ma Ha Ba Xã Ba Đề và bà Da Du Đề La cùng nhiều người bên nữ giới họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong đạo Phật, lần đầu tiên có Hàng Tỳ Kheo Ni. Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông Cấp Cô Độc lập tịnh xá, cắt giảng đường để Ngài thuyết pháp độ sanh.

Như thế, chúng ta thấy Đức Phật đã tuân tứ hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những hàng người đủ căn cơ hiểu thấu giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác; lập Tỳ Kheo trước, rồi Tỳ Kheo Ni sau. Sự vụ hóa độ này tuân theo quy luật tự nhiên của lòng từ bi và sự phát triển hợp lý của tổ chức giáo hội.

Hóa Độ Tùy Phương Tiện

Trong suốt thời kỳ thuyết pháp độ sanh, lắm khi Ngài cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tùy phương tiện để cảm hóa họ và đưa họ về đường ngay lắp tức. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con của ngoại đạo đến bỏng giả có chứa để đến giữa đạo trường đó vu oan cho Ngài; khi thì Ngài bị anh chị em Vô Nãi đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay gộp thêm cho đủ số 1000 ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì Ngài bị Đề Bà Đạt Đa, người anh em họ hung ác, âm mưu hãm hại Ngài bằng cách thả bầy voi say cho chạy đến chà đạp Ngài, hay lắn đá to từ trên núi cao xuống để Ngài.

Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu, vì oai đức uy danh và trí tuệ của Ngài bảo bọc Ngài, không một hình động xấu xa nào có thể thắng Ngài được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đối hướng dễ dàng, hoán cải được tất cả những nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng, kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; người chối Ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoài đạo trở thành Phật tử. Bằng chứng là: Đề Bà Đạt Đa cũng được Ngài thỏ kỹ, anh chị em Vô Nãi cũng được quy y, bầy voi say cũng được sám hối, vua A Xà Thế cũng hỏi cải và quay về đường ngay.

Sự khôn ngoan của Phật trong việc hóa độ những kẻ chối trở nên kính mếnSự khôn ngoan của Phật trong việc hóa độ những kẻ chối trở nên kính mến

Nói tóm lại, Đức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mỗi người, mỗi vật, mỗi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những ai mà Ngài đã gặp trên đường truyền đạo của Ngài. Không phải chỉ ngoài đời, mà ngay trong Giáo Hội của Ngài, Ngài cũng tùy theo căn cơ; tâm lý của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông Nan Đà, mặc dù thân đã xuất gia nhưng tâm vẫn muốn ngao du, luyện ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đưa ông lên cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình phạt đau đớn rùng rợn, hãi hùng để ông so sánh hai cảnh đời trái ngược mà tự chọn lấy một đường.

Còn đối với ông A Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng vì nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn “Ma Đăng Giáo truất”, thì Phật lại đem giáo lý thâm sâu là kinh Lăng Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A Nan thấy rõ được cái quý giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong rượi theo giả cảnh nữa.

Xem như thế thì Đức Phật đã dùng phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bệnh cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Đối với kẻ thân, người thừ, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.

Hóa Độ Theo Tinh Thần Bình Đẳng

Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm sáng quý giá nhất trong giáo lý của Đức Phật, cũng như trong tâm hồn của Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc lộ trong những cú chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn.

Khi thành đạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc. Như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ, người này sợ làm lây ô uế cho Ngài, thì Ngài phán bảo: “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật”.

Trong Giáo Hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông Ưu Ba Ly một đệ tử có tiếng tăm của Ngài về phương diện giới luật, là một người thuộc giai cấp hạ tiện Chiến Đà La, làm nghề gánh phân. Sự thâu nhận ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật: “Đáng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng Đồ như vậy, không ngại rằng đã sỏi lần lớn với chúng Tăng sao?”.

Phật dạy rằng:

“Người hèn hạ mà biết phát tâm Bồ Đề, xuất gia tu hành, chứng được Quả Thánh, thì quý bảu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mộc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”.

“Một người sinh ra không phải liền thành Bà La Môn (giai cấp trên hết) hay Chiến Đà La (giai cấp thấp nhất), mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành Chiến Đà La hay Bà La Môn”.

Đức Phật chấp nhận xin nước từ một người thuộc giai cấp hạ tiện nhấtĐức Phật chấp nhận xin nước từ một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất

Ngài xấu giữm kim cho người mù, hoàn hỷ nhận hôn đất sét mà đối bà đã nằn đễ dâng Ngài, thỏ lãnh bữa cơm cuối cùng do một người đốt than nghèo nàn dâng cúng.

Chính vì sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Đại Niết Bản đã tán thán:

“Đức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho các hàng người quyền quý như vua Bát Đề Ca, mà cũng thuyết pháp cho hàng người bần cùng như ông Ưu Ba Ly; không riêng thỏ lãnh sự cúng đường của những người giàu có như ông Tu Đạt Đà, mà cũng thỏ lãnh sự cúng đường của các hàng nghèo khổ như ông Thuận Đề; không riêng cho phép xuất gia các hàng không có tính tham như ngài Ca Diếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tính tham như ông Nan Đà; không nhất thuyết pháp cho hàng người an tĩnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua Tán Bà Ta La trong lúc đang bận rộn việc nước; không nhất thuyết pháp cho hàng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho bà Hoàng hậu Mạt Ly, mà thuyết pháp cho dâm nữ Liên Hoa”.

Ý Nghĩa và Bài Học từ Sự Hóa Độ của Đức Phật

Ba nguyên tắc hóa độ này của Đức Phật không chỉ là những phương pháp kỹ thuật trong truyền đạo, mà còn là biểu hiện của sự từ bi vô biên và trí tuệ siêu việt. Chúng phản ánh một thực tế sâu sắc: mỗi con người, dù thuộc giai cấp nào, hoàn cảnh nào, đều có khả năng và quyền được tiếp cận giáo pháp, được tu tập và đạt thoát.

Sự hóa độ bình đẳng của Đức Phật đã phá vỡ những rào cản giai cấp của thời đại, khẳng định rằng Phật tánh không phân biệt giàu nghèo, cao thấp. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt tâm linh, mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, khi Phật giáo trở thành tôn giáo dân chủ nhất, tiếp cận được với mọi tầng lớp nhân dân.

Đối với những người Phật tử ngày nay, những nguyên tắc hóa độ này là bài học quý báu về cách tiếp cận giáo pháp. Chúng ta cần hiểu rằng, giáo lý Phật không phải cái gì cao xa không thể tiếp cận, mà là những lẽ thật gần gũi, thực hành được trong từng ngày từng giờ. Dù chúng ta ở hoàn cảnh nào, dù tâm tính của chúng ta như thế nào, đều có phương pháp thích hợp để chúng ta tu tập và tiến bộ trên con đường giải thoát.

Lòng từ bi, sự linh hoạt trong phương tiện, và tinh thần bình đẳng của Đức Phật là những gương sáng soi đường cho chúng ta trong quá trình tu học Phật pháp và phát hành giáo lý. Những nguyên tắc ấy dạy chúng ta rằng, con đường giác ngộ không phải là đặc quyền của một số ít, mà là con đường mở cửa chào đón tất cả những ai có lòng quyết tâm tìm tòi sự thật và theo đuổi giải thoát.


Tuân theo truyền thống Phật giáo, tài liệu này được cung cấp như một tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu có ích, hãy cân nhắc quyền góp một lần hoặc hàng tháng để cùng nhau xây dựng nền tảng truyền bá Chánh Pháp bền vững.

Related posts

Từ Bi – Cội Nguồn và Trái Tim của Phật Giáo

Administrator

Quả Báo Năng Nề Của Những Vị Vua Diệt Phật Tại Trung Quốc

Administrator

Vô Ngã (Phần 5): Giải Thoát Khỏi Ảo Tưởng Cái Ta

Administrator