Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Phật Giáo Có Phải Là Tôn Giáo Có Tính Thế Giới?

Phật giáo là một tôn giáo thế giới. Vì Đức Phật không phải là một vị Thần bảo hộ cho một dân tộc, mà là một bậc giác ngộ với trí tuệ bao quát cả vũ trụ, không gì không thấy, không biết một cách chính xác và thấu triệt. Do đó, Đức Phật là thuộc tầm cơ vũ trụ.

Sự giác ngộ của Đức Phật bao trùm cả vũ trụ, ánh sáng từ bi của Phật rồi chiếu khắp tất cả. Do đó, bản chất của Phật giáo là có tính thế giới, có tính vũ trụ. Vì vậy, trong gần hơn hai nghìn năm trăm năm lại đây, Phật giáo dần dần được truyền bá khắp các nơi trên thế giới.

Sự Truyền Bá Của Phật Giáo Qua Các Thời Kỳ

Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, tương đương với buổi đầu của kỳ nguyên Thiền chúa. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, khoảng ba bốn trăm năm, do trong nội bộ Phật giáo có ý kiến bất đồng mà hình thành hai hệ phái lớn: Một hệ phái gồm các bậc tuổi cao, và có tính bảo thủ gọi là Thượng tọa bộ. Một hệ phái thứ hai gồm những tăng sĩ trẻ tuổi, có đầu óc tiến tiến, gọi là Đại chúng bộ. Về sau, Thượng tọa bộ được truyền bá hướng về phương nam, đến Tích lan. Thượng tọa bộ dùng tiếng Pali ở phương nam để ghi chép kinh điển. Vì vậy, về sau cũng gọi Thượng tọa bộ là Phật giáo theo ngữ hệ Pali.

Còn Đại chúng bộ thì có một nhánh truyền lên phía bắc Ấn Độ, tuy nó không trực tiếp sản sinh ra Phật giáo Đại thừa, nhưng chính trong những khu vực thịnh hành của Đại chúng bộ, đã xuất hiện ra Phật giáo Đại thừa. Phật giáo Đại thừa dùng chữ Phạn để sưu tập, ghi chép kinh điển cho nên cũng gọi là Phật giáo văn hệ chữ Phạn.

Đức Phật Thích Ca Tây Tôn ngồi thiền dưới cây Bồ Đề, biểu tượng giác ngộ phật giáoĐức Phật Thích Ca Tây Tôn ngồi thiền dưới cây Bồ Đề, biểu tượng giác ngộ phật giáo

Phát Triển Phật Giáo Bắc Truyền Và Nam Truyền

Trên đây chỉ bàn đại khái về sự phân bố địa lý của Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền. Nhưng nếu phân tích sâu hơn các sự liệu, thì thấy Phật giáo Nam truyền đến Miền Điện sớm nhất lại là Phật giáo Đại thừa theo văn hệ chữ Phạn. Phật giáo Nam phương đầu tiên theo đường biển đến Trung Quốc cũng là Đại thừa giáo. Ngược lại, trong Phật giáo Bắc truyền cũng có thế lực khá mạnh của Phật giáo Tiểu thừa.

Phật giáo Đại thừa tuy bắt nguồn từ thời Đức Thích Ca Tây Tôn còn tại thế, nhưng sau khi Phật nhập diệt, lại rất ít được Tăng Đoàn Tự Khiêu coi trọng và phát huy. Tình hình này kéo dài đến ba bốn trăm năm. Sau đó, vì trong nội bộ của Phật giáo Tiểu thừa, có sự phân phái phức tạp, cho nên mới có yêu cầu Phật giáo Đại thừa xuất hiện và phát triển, với những nhân vật đại biểu xuất sắc như Mã Minh, Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân v.v…

Phật giáo Đại thừa dùng chữ Phạn để sưu tập, ghi chép kinh điển cho nên cũng gọi là Phật giáo văn hệ chữ Phạn.

Kinh tạng Phật giáo được viết bằng chữ Phạn, nguồn gốc của Phật giáo Đại thừaKinh tạng Phật giáo được viết bằng chữ Phạn, nguồn gốc của Phật giáo Đại thừa

Kỳ Vàng Của Phật Giáo Trung Quốc

Trong gần hơn hai nghìn năm trăm năm lại đây, Phật giáo dần dần được truyền bá khắp các nơi trên thế giới. Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, tương đương với buổi đầu của kỳ nguyên Thiền chúa.

Đại bộ phận kinh sách Phật giáo Trung Quốc là do dịch từ kinh Phật chữ Phạn. Tuy Đại thừa rất thịnh hành trong Phật giáo Trung Quốc, nhưng kinh điển Tiểu thừa cũng được dịch rất nhiều. Trung Quốc có đầy đủ những bản dịch của những kinh sách Tiểu thừa quan trọng.

Từ Ngũy Tấn, Nam Bắc triều đến Tùy và Đường là thời đại hoàng kim của Phật giáo Trung Quốc. Có nhiều cao tăng xuất hiện, sự giao lưu giữa Trung Quốc và Ấn Độ nối tiếp không ngừng. Trong thời kỳ này, Phật giáo Trung Hoa nở hoa, kết trái, cả Đại thừa và Tiểu thừa có tới 13 tông phái, sau hợp gọn lại còn 8 tông phái Đại thừa. Tức là Thiền Tài tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Duy Thức tông, Tịnh Độ tông, Luật Tông, Thiền tông, Mật tông.

Sau thời kỳ Ngũ Đại do chính trị suy vi, và hoàn cảnh xã hội thúc bách, Phật giáo Trung Quốc lả xanh các trung tâm văn hóa, ẩn vào rừng sâu, tăng sĩ tự cấy ruộng lấy để có thức ăn, việc nghiên cứu nghĩa lý trong kinh sách không còn thích hợp. Vì vậy chỉ còn lại một minh Thiền tông chủ trương bất lập văn tự, giáo ngoài biệt truyền.

Chùa Thiền cổ tại Trung Quốc, nơi lưu giữ truyền thống Phật giáo hàng ngàn nămChùa Thiền cổ tại Trung Quốc, nơi lưu giữ truyền thống Phật giáo hàng ngàn năm

Phát Triển Phật Giáo Tây Tạng

Vào thế kỷ thứ 9, thứ 10 sau khi Phật nhập diệt ở Ấn Độ thế lực của Bà la môn giáo trỗi dậy, đã kích mạnh mẽ không thương tiếc vào Phật giáo. Phật giáo Đó trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, cũng theo thế thường mà chấp nhận quan niệm về Phạm thiên của Bà la môn giáo (bây giờ gọi là Ấn Độ giáo), và du nhập quan niệm đó vào Phật giáo Đại thừa.

Đây là nguyên nhân làm cho Phật giáo vốn là thanh tịnh, lại pha tạp các nhân tố mê tín của dân gian thế tục, thậm chí cả đến thuật nam nữ giao hợp trong phòng kín… Đó là thời kỳ gọi là Mật giáo Đại thừa, thời kỳ thứ ba của Phật giáo Ấn Độ.

Ấn Độ giáo biết tiếp thụ nhiều ưu điểm của Đạo Phật, biến thành nhân tố làm cho Ấn Độ giáo trở nên hưng thịnh, còn Phật giáo lại tiếp thụ những tín ngưỡng hạ cấp của Ấn Độ giáo, biến chúng thành những nhân tố làm cho nội bộ Phật giáo cũng ngày càng hạ bại. Do vậy, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, trước hai mươi đã kích của Ấn Độ giáo và Hồi giáo, vừa mới xâm nhập Ấn Độ, Phật giáo bị tàn lụi đến tuyệt tích…

Tuy nhiên, như tài liệu lịch sử chỉ rõ, từ khi Đạo Phật bị tiêu vong ở Ấn Độ, thế lực của cả nước Ấn Độ cũng ngày một bị suy giảm, đời sống nhân dân cũng ngày càng khó khó, đất nước Ấn Độ cũng không còn được thống nhất. Mãi đến năm 1950, Ấn Độ mới giành lại được độc lập trong tay bộn thổ trị người Anh. Nhưng trên nước Ấn Độ xưa, nay đã xuất hiện thêm các quốc gia có chủ quyền như Pakistan và Nê Pa…

Hiện nay, Phật giáo Đó ở Ấn Độ, được sự bảo hộ của luật pháp và được sự đối đãi tốt của chính phủ về chính trị, cho nên đã phát triển nhanh chóng, từ năm 1951 đến nay. Tuy nhiên, trong tổng dân số hơn 400 triệu người Ấn Độ, Phật giáo Đó chỉ chiếm một số lượng không đáng kể, từ 10 vạn 8000 người tăng lên 325 vạn mà thôi. Đó là điều đáng lo ngại, bởi vì có người tự cao ràng, Ấn Độ hèn yếu là do tín ngưỡng Phật giáo.

Các nhà sư Tây Tạng tụng kinh tại ngôi chùa cáo của Phật giáo Tây TạngCác nhà sư Tây Tạng tụng kinh tại ngôi chùa cáo của Phật giáo Tây Tạng

Phật Giáo Tây Tạng Và Sự Phát Triển

Phật giáo Tây Tạng tuy có quan hệ với Trung Hoa, nhưng là do truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ sang. Phật giáo Tây Tạng tuy cũng là Đại thừa, nhưng chỉ là một nhánh của Mật giáo – hiện là có nghĩa lý, sách về chép rõ ràng. Phật giáo các nước hiện nay như Nhật Bản, Trung Quốc là đại biểu cho Phật giáo Đại thừa hiện giáo. Phật giáo Tây Tạng tuy cũng là Đại thừa, nhưng chỉ là một nhánh của Mật giáo Đại thừa, do Thượng sư Liên Hoa Sinh từ bắc Ấn Độ truyền sang.

Tây Tạng thời bấy giờ có nền văn hóa lạc hậu, theo tín ngưỡng đa thần, cho nên Mật giáo Đại thừa thần bí và có nhiều linh nghiêm, rất được nhân dân Tây Tạng hoan nghênh đặc biệt, bản thân ngài Liên Hoa Sinh là một vị cao tăng Mật giáo, rất giỏi pháp thuật thần thông lại cũng được người Tây Tạng hâm mộ.

Liên Hoa Sinh vốn là đồng môn với ba cao tăng Mật giáo đến Trung Hoa vào đời nhà Đường, tức là Thiền Vô Úy, Kim Cương và Bất Không đều cũng là học trò của Bồ Tát Long Trí. Vì Liên Hoa Sinh cùng với Phật giáo Đó Tây Tạng lúc bấy giờ đều mặc áo Đỏ, cho nên giáo phái của họ gọi là Hồng giáo.

Đến thời kỳ cuối nhà Nguyên, đầu nhà Minh, sinh hoạt của tăng sĩ Lạt Ma Hồng giáo rất hủi báy, do đó mà có Đại sư Tô Lạt Ba (Tsong Kha Pa) xuất hiện, kêu gọi tăng sĩ trở về với nếp sống thanh tịnh, chịu sự chế tài của Luật Phật. Tông Lạt Ba chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu giáo lý, dùng Đạo Đức để cảm hóa toàn dân Tây Tạng. Vì giáo phái ông mặc áo vàng, cho nên gọi là Hoàng giáo. Mật giáo ở Mông Cổ, Nê Pan v.v… đều là những chi nhánh của Mật giáo Tây Tạng.

Thöngka - Tôn sư vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng, người sáng lập Phái Mũ VàngThöngka – Tôn sư vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng, người sáng lập Phái Mũ Vàng

Ba Thời Kỳ Phát Triển Của Phật Giáo

Sau khi Phật diệt độ, Phật giáo Ấn Độ, trên đại thể có thể chia làm ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất, từ khi Phật diệt độ cho tới 300 hay 400 năm, là thời kỳ của Phật giáo Thượng tọa bộ, mà đại biểu hiện nay là Phật giáo ở các nước như Tích Lan v.v…

Thời kỳ thứ hai, từ 500/600 năm, là thời kỳ của Phật giáo Đại thừa Hiện giáo (tức không phải Mật giáo – hiện là có nghĩa lý, sách về chép rõ ràng). Phật giáo các nước hiện nay như Nhật Bản, Trung Quốc là đại biểu cho Phật giáo Đại thừa Hiện giáo. Thời kỳ thứ ba là thời kỳ Mật giáo Đại thừa, đại biểu hiện nay là Phật giáo Tây Tạng. Thời kỳ này bắt đầu từ khoảng 1000 năm sau khi Phật diệt độ.

Hiện giáo thì chú trọng nghĩa lý, vân cơ rõ ràng, Mật giáo thì thiên về giữ gìn nghi thức, trì chú, đặc biệt là tin tưởng ở sự gia hộ của thần linh.

Nếu diễn đạt một cách khác thì có thể nói thời kỳ thứ nhất là Phật giáo Thanh văn hóa. Thời kỳ thứ hai là Phật giáo Bồ Tát hóa. Thời kỳ thứ ba là Phật giáo Thiên thần hóa. Điều cần thiết hiện nay là triển khai một thời kỳ thứ tư, thời kỳ Phật giáo nhân gian hóa.

Những bộ kinh Phật được trưng bày tại chùa, khôi phục sự giáo hóa của Phật phápNhững bộ kinh Phật được trưng bày tại chùa, khôi phục sự giáo hóa của Phật pháp

Phật Giáo Lan Tỏa Ra Thế Giới Phương Tây

Ở Mỹ, cả Phật giáo Nam truyền, Bắc truyền và Phật giáo Tây Tạng đều có hoạt động. Nhưng nếu nói chung cả hai châu Âu và châu Mỹ, và đúng về mặt nội dung văn hóa mà nói thì Phật giáo Nam truyền chiếm ưu thế.

Phật giáo phương Tây bắt đầu với triết gia Đức Schopenhauer, từ tư tưởng ông này mang nặng sắc thái Ấn Độ, chủ yếu là sắc thái của Ãoã nghĩa thư (Upanishads), và của kinh sách Phật giáo thời kỳ đầu. Hiện nay, các nước Pháp, Anh, Bỉ, Ấn, Liên Xô và cả ở Mỹ, Ănggiêng tin, Ba Tây đều có Phật giáo Đó hoạt động, nhưng Phật giáo hoạt động mạnh và có tiến độ nhất là ở hai nước Đức và Mỹ. Đặc biệt là ở Mỹ, cả Phật giáo Nam truyền, Bắc truyền và Phật giáo Tây Tạng đều có hoạt động.

Nhưng nếu nói chung cả hai châu Âu và châu Mỹ, và đúng về mặt nội dung văn hóa mà nói thì Phật giáo Nam truyền chiếm ưu thế. Điều này là do, từ năm 1505 đến năm 1947, Tích Lan lần lượt bị Bộ Đào Nha, rồi Ha Lan và nước Anh chiếm làm thuộc địa, và Tăng sĩ Tích Lan dùng các nước phương Tây này như cái cầu để qua phương Tây truyền giáo, còn Phật giáo Đại thừa ảnh hưởng tới các nước Âu Mỹ là công lao chủ yếu của người Nhật Bản.

Trong những thế kỷ gần đây, công việc truyền bá nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc ra nước ngoài, lạc hậu rất nhiều so với các nước khác, thậm chí so với Tây Tạng cũng còn thua kém. Hiện nay Hoa kiều ở Mỹ tuy nói là tin theo Đại thừa Phật giáo, nhưng lại không hiểu giáo lý của Đại thừa Phật giáo là gì!

Kết Luận: Phật Giáo Là Tôn Giáo Thế Giới Với Tính Nhân Văn

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định rằng Phật giáo thực sự là một tôn giáo thế giới. Sự giác ngộ của Đức Phật vượt ra ngoài ranh giới của bất kỳ dân tộc hay quốc gia nào, mà hướng tới tất cả loài sinh vật trên toàn vũ trụ.

Phật giáo đã lan tỏa khắp ba châu Á, Âu, Mỹ, và luôn thích ứng với điều kiện lịch sử, văn hóa của từng vùng địa phương, tạo ra những biểu hiện đa dạng trong từng khu vực, nhưng vẫn giữ nguyên bản chất của Phật pháp. Trong thế giới ngày nay, khi nhân loại đang tìm kiếm những giải pháp cho các vấn đề tâm linh và đạo đức, Phật giáo với lý thuyết sâu sắc về khổ, vô thường, vô ngã, và con đường giải thoát, vẫn mang lại ánh sáng cho hàng triệu người tu tập trên khắp thế giới.

Sự phát triển bền vững của Phật giáo qua hàng nghìn năm lịch sử chứng minh rằng, những giáo lý của Đức Phật không chỉ phù hợp với một thời đại hay một vùng địa phương cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, vượt thời gian, vượt không gian, góp phần tạo ra một nền tảng tinh thần chung cho toàn nhân loại.

Related posts

Buôn Bán Gian Dối Là Nợ Nân Của Chính Mình

Administrator

Phương Dưỡng Cha Mẹ: Con Đường Giải Thoát Nạn Cùng Cực

Administrator

Chuyến Vãng Sanh của Lão Cư Sĩ Lữ Nhiên Phú (1929-2000)

Administrator