Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Vua Minh Mạng và Những Lần Ghé Chùa Thiên Mụ: Niềm Tin Phật Giáo Trong Lòng Một Vị Vua Anh Minh

Minh Mạng là vị vua thứ hai của triều đại Nguyễn, cầm quyền từ năm 1820 đến 1840. Danh tiếng của ông vang dội trong lịch sử Việt Nam nhờ tài năng quản lý xuất sắc, quyết đoán trong mọi công việc và sự siêng năng không biết mệt. Từ những vấn đề nội trị cho đến quan hệ ngoại giao, dấu ấn của một vị vua tài ba luôn hiện hữu. Tuy nhiên, ngoài ảnh tượng một nhà cầm quyền nghiêm khắc theo đạo Nho, Minh Mạng lại có một phương diện ít được biết đến: lòng tin sâu sắc vào đạo Phật và sự kính cẩn đối với Tam Bảo. Đặc biệt, tấm lòng của vua dành cho Chùa Thiên Mụ – ngôi chùa nổi tiếng của kinh kỳ Huế – được thể hiện qua nhiều hành động thiết thực và ý tứ sâu xa.

Nguyện Vọng Dời Văn Miếu Về Chùa Thiên Mụ

Trong những năm đầu cầm quyền, Minh Mạng từng có một ý định độc đáo: chuyển dời Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử và các bậc Nho học – từ địa điểm cũ về gần Chùa Thiên Mụ tại Huế. Năm 1830, khi vua đi thị sát VĂn Miếu ở tỉnh Thừa Thiên, vua đã bày tỏ tâm nguyện này với các quan hành:

“Toàn cục chỗ này thực là nơi sống tốt. Trẫm tương muốn dời Văn Miếu về đây. Nhưng lại nghĩ Chùa này là do Thái tổ Gia dụ Hoàng Đế (chúa Tiền Nguyễn Hương) dựng lên, các thánh nhân theo theo. Đến Thế tổ Cao Hoàng Đế (Gia Long) ta dừng lại cơ đó, dừng lại nền cũ. Nay nếu dời đi lòng thực không yên. Cho nên không thể không cứ theo cũ.”

Lời nói của vua cho thấy một trí tuệ sâu sắc: dù yêu chuộng việc sắp xếp theo logic và lý tưởng Nho học, nhưng Minh Mạng vẫn hiểu được tầm quan trọng của Chùa Thiên Mụ đối với lịch sử, văn hóa và tâm linh của đất nước. Ngôi chùa không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là biểu tượng của sự kế thừa từ các vị tiền nhân. Sự tôn trọng này thể hiện rõ quyết tâm của vua trong việc giữ gìn những giá trị truyền thống.

Chùa Thiên Mụ nhìn từ xa với kiến trúc cổ kính giữa núi đồi HuếChùa Thiên Mụ nhìn từ xa với kiến trúc cổ kính giữa núi đồi Huế

Sáu Lần Lập Đàn Cầu Siêu Tại Chùa Thiên Mụ

Dù luôn nói yêu chuộng đạo Nho, nhưng trên thực tế hành động, Minh Mạng lại thể hiện lòng kính Phật không kém. Vua cho trùng tu và xây dựng nhiều ngôi chùa lớn tại các nơi khác nhau trên cả nước: Chùa Hoàng Phúc (1821, Quảng Bình), Chùa Bảo Quốc (1825, Huế), các chùa trên núi Ngũ Hành Sơn như Tam Tạo, Ưng Chơn, Trang Nghiêm và Tự Tâm (1825, Đà Nẵng), Chùa Khai Tương (1832, Gia Định), Chùa Thuỷ Vân (1836, Huế), Chùa Thánh Duyên (1837, Huế), Chùa Giác Hoàng (1839, Huế) và Chùa Vĩnh An (Quảng Nam).

Qua tài liệu lịch sử Đại Nam thực lục, chúng ta nhận thấy Minh Mạng đã cho lập không ít lần đàn cầu siêu cầu phúc tại Chùa Thiên Mụ. Những sự kiện này không chỉ là nghi thức tôn giáo mà còn phản ánh sâu sắc tâm tính và triết học của vua.

Lần thứ nhất – Năm 1820: Cầu Siêu Cho Vua Gia Long

Ngay trong năm Minh Mạng lên ngôi (Canh Thìn 1820), Thái trưởng công chúa Ngọc Tú – mẹ của vua – xin phép lập trai cầu siêu để cầu siêu cho Vua Gia Long (vua cha của Minh Mạng). Đây là một việc làm tự nhiên của lòng hiếu thảo, vua đã đem việc này bàn bạc với các đại thần. Nguyễn Văn Nhân – tổng trấn Gia Định thời đó – chỉ ra rằng việc này là xứng đáng. Pháp Tạng Hưng (Thượng thư bộ Lê) cũng tán thành.

Vua cho sai Tôn Thất Dịch và Vệ Úy Trần Đăng Long đến trước Chùa Thiên Mụ để dựng nhà tranh và sắp đặt các vật dụng. Đàn cầu siêu diễn ra suốt 21 ngày, với Thái trưởng công chúa làm chủ tế. Các tướng công lần lượt đến dâng hương. Vua thường xuyên đến tham dự để tỏ lòng thương nhớ.

Chính điện Chùa Thiên Mụ với kiến trúc cổ kính bao trùm bởi không gian linh thiêngChính điện Chùa Thiên Mụ với kiến trúc cổ kính bao trùm bởi không gian linh thiêng

Lần thứ hai – Năm 1821: Cầu Siêu Cho Hoàng Thái Hậu

Năm thứ hai triều đại Minh Mạng (1821), vua cho lập đàn cầu siêu lớn tại Chùa Thiên Mụ, sai bộn Tổng Phúc Lương và Võ Viết Báo trông coi. Vua cấp binh lính và thực phẩm cho hơn 1000 quan tiền. Theo các ghi chép thời đó, mùa xuân năm ấy có sự kiện tấn tôn hoàng mẫu để làm hoàng thái hậu. Có lẽ vua lập đàn cầu siêu để cầu chúc phúc lộc cho mẹ được “danh lớn chính đáng, phúc tốt dồi dào”. Cũng năm đó, vào mùa hạ (tháng 7 âm lịch), vua lại đến đàn cầu siêu tại Chùa Thiên Mụ để cúng tặng cho những linh hồn đã khuất với số tiền gần 1000 lạng bạc.

Lần thứ ba – Năm 1830: Cầu Siêu Cho Các Tướng Sĩ Vong Thần

Năm Canh Dần 1830 (Minh Mạng thứ 11), mùa hạ, vua cho lập đàn cầu siêu tại Chùa Thiên Mụ để cầu siêu cho các tướng sĩ trấn vong từ trước và tất cả những ma vô tư khác. Vua sai lập đàn cầu siêu phụ độ dưới nước, trên cạn ở Chùa Thiên Mụ. Vua đã đến xem và phát biểu một tư tưởng sâu sắc với các quan:

“Đặt đàn cầu siêu chưa biết những u hồn ở âm phủ có được thâm ơn không, chỉ là để tỏ ý trầm thương nhớ bị tội mà thôi.”

Lời nói này cho thấy tâm thức phương pháp của Minh Mạng – vua không chỉ hành động theo phong tục mà còn suy xét kỹ càng về ý nghĩa thực sự của nghi thức tôn giáo.

Không gian trang nhã bên trong Chùa Thiên Mụ nơi diễn ra các đàn cầu siêuKhông gian trang nhã bên trong Chùa Thiên Mụ nơi diễn ra các đàn cầu siêu

Lần thứ tư – Năm 1835: Cầu Siêu Sau Chiến Tranh Phiên An

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), mùa thu, sau khi đánh dập chiến sự ở Bắc Kỳ hoàn tất, vua cho lập đàn cầu siêu lớn tại Chùa Thiên Mụ. Vua sai quyền thứ Thống chế Bùi Công Huyền và Biên lý công bộ Nguyễn Đức Trịnh trông coi công việc lập đàn này.

Vua đã trình bày suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa của đàn cầu siêu:

“Lúc có chiến sự, ở nơi chiến trường, nhiều người không khỏi mắc phải mũi tên, hơn đó là đơn. Đối với những người chết trận hoặc chết bệnh, ta đã từng tùy việc, gia ơn truy tặng và cấp tiền tuất, đảm đưa ưu hậu, vinh quang tấn suối vân vân. Lại lập đàn, ban lộc tế, để hạ hương hồn. Đạo Phật lấy tế độ làm trọng, có lẽ giúp cho âm phúc được nhẹ. Vậy sai bộ Lộ sắm vật liệu trước, đến ngày Trung nguyên (rằm tháng bảy) truyền cho các sư tập hợp ở Chùa Thiên Mụ lập đàn trùng thủy lục 21 ngày để siêu độ vong hồn những quan quân ta đã chết vì việc nước.”

Triều đình truyền sai văn tập những nhà sư ở các chùa các địa hạt – những người nào tinh tấn giữ giới đến kinh được cấp giới Đạo Độ Diệp. Họ cấp cho hai trụ trì Chùa Thiên Mụ và quân Linh Huy mỗi người một Đạo văn bằng tăng cường. Khi đến kỳ lập đàn cầu siêu, vua sắc cho bộ Lại, bộ Binh liễu phái cùng văn thì chủ sự, tư vụ, võ thì suất độ – tất cả vài mười người lần lượt phiên đến đàn cầu siêu làm lễ. Vua đến Chùa Thiên Mụ, tớ trước đàn thì cúi tạ các tướng sĩ, chính tay rót rượu và sai các quan vệ dâng tế.

Đàn cầu siêu lập được 7 ngày thì quan quân hạ được Thành Phiên An, vua lại sai “cho bảy thêm bài vị, tiếp tục làm cầu siêu độ cho các tướng binh, binh lính vì đánh dập Phiên An mà chết trận, chết bệnh”. Vua lại ra chơi xem làm cầu siêu tại Chùa Thiên Mụ, nhân bảo quan hậu rằng:

“Nhà Phật dùng thần đạo để dạy đời, Khổng Tử chỉ dạy luân thường làm môn dùng hàng ngày, song tóm lại chung quy đều dạy người tự làm điều thiện mà thôi. Kể ra người ta sinh ra ở trong vòng trời đất, nên làm điều thiện, tránh điều ác. Đối với đạo Phật dạy người bằng thuyết hạ phúc, báo ứng, ta không nên nhiệt khai cho là điểm đoán. Một việc khuyên người làm điều thiện của nhà Phật, dù thánh nhân sống lại cũng không thể đối bỏ được.”

Lần thứ năm – Năm 1835: Cầu Siêu Cho Tín Nhân Đã Khuất

Mùa thu năm Ất Mùi 1835 (Minh Mạng thứ 16), vua lại cho lập đàn cầu siêu để cúng phụ độ cho những người tín nhân đã chết. Vua chỉ ra:

“Lại nghĩ đến những người tín thật đã chết: có người trước đây bị mình vì cuộc binh cách, có người nửa vợ vợi mà chết trước, có người còn trẻ mà chết non, nghĩ đến rất là đau xót! Vậy nên làm lễ truy tiên phụ độ, cầu phúc đường âm để yên ủi hương hồn, nhắm tiết Hạ nguyên tháng 10, lập đàn phụ độ.”

Ban đầu vua định làm vào tiết Hạ nguyên (mùa hè, tháng 6 âm lịch), nhưng vì tiết này là mùa nóng nực, hay mưa giông, và binh dịch làm việc nhọc nên vua đổi sang tiết Thương nguyên (tháng giêng năm sau). Vua sai cấp nhiều đồ mã như quần áo, đồ dùng vàng bạc, tiền giấy để tỏ ý cảm nhớ như còn sống. Vua sai sắm vật liệu trước, đến ngày Trung nguyên giao cho các sư tập hợp ở Chùa Thiên Mụ lập đàn cầu siêu cứng thủy lục 21 ngày đêm cúng phụ độ linh hồn cho các tín nhân xa gần đã qua cỡi.

Lần thứ sáu – Năm 1836: Cầu Siêu Cho Hai Vương Thiếu Hóa và Vĩnh Tường

Năm Minh Mạng thứ 17 (tức 1836), mùa thu, “làm cầu siêu ở làng Anh Duyệt Hoàng thái tử và trước đó hai quân Vương Thiếu Hóa, Vĩnh Tường”. Vua sai Tôn nhân phủ, bộ Lộ họ Đông cùng quận thị vệ về trông coi việc này. Đến ngày Trung nguyên mới các sư đến tụng kinh 7 ngày đêm, đốt nhiều vàng mã tiền giấy để cầu âm phúc.

Tâm Tính Của Một Vị Vua Trí Tuệ

Tóm lại, Minh Mạng là vị vua anh minh, quyết đoán, nhưng không thiếu phần khôn khéo tinh tế. Dù ưu ái đề cao đạo Phật, dựa vào Phật giáo để gắn kết lòng người, khuyến khích hành động từ thiện, vua đã dành nhiều tiền tài và tâm lực để góp phần hoằng dương Phật pháp. Tuy nhiên, cách nói của vua với quan lại lại cốt để giới quan lại Nho học không cảm thấy phản ứng, nhất là thời kỳ đầu khi vua mới lên ngôi.

Về sau, khi ngôi vương vững chắc, triều đình hùng mạnh, nhà vua cũng đề cao Phật giáo, cho xây dựng nhiều chùa mới, sai lập trai đàn không chỉ ở chùa mà còn ở làng tâm cầu siêu cho thân nhân của mình. Qua những hành động này, ta thấy rõ một vị vua không chỉ thông minh trong chính trị và quân sự, mà còn có tâm huyết sâu sắc đối với tâm linh của dân tộc. Lòng kính Phật của Minh Mạng là minh chứng sống động về sự hòa hợp giữa đạo Nho và đạo Phật trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.


Tham khảo:

  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện sử học dịch, 2007), Nxb. Giáo dục
  • Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội sử Điển lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (2014), Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế
  • Tạp chí Văn hóa Phật giáo

Related posts

Henry Ford và Niềm Tin Vào Luân Hồi Tái Sinh

Administrator

Cuộc Đời Như Giấc Chiêm Bao: Triết Lý Về Vô Thường Trong Bài Kệ Thiền Sư Pháp Loa

Administrator

Đạo Phật: Con Đường Thực Nghiệm Tâm Linh Vượt Trội

Administrator