Image default
Phật Học Ứng Dụng

Duyên Khởi và Ý Nghĩa của An Cư Kiết Hạ

Duyên khởi của sự An Cư Kiết Hạ, của chúng tôi kheo dù đơn giản được nói là do Đức Thế Tôn tuỳ thuận theo ước muốn của các đệ tử tại gia, nhưng trong ý nghĩa sâu xa thì nó là sinh mệnh tồn tại của Chính pháp được duy trì bằng đời sống thanh tịnh và hòa hiệp của cộng đồng tăng lứa. Chừng nào chúng tôi kheo còn nhiệt thành trong phần sự an cư ba tháng thì bây giờ Chính pháp vẫn còn là sức sống phong phú để loài người làm nơi quy ngưỡng và xây dựng một thế giới an lành.

Nguồn Gốc An Cư Kiết Hạ Theo Kinh Điển

Theo luật Tứ phần, duyên khởi của Đức Phật quy định mùa an cư của chúng tôi kheo xảy ra khi Ngài đang trú tại Xá Vệ, trong vườn của Ông Cấp Cô Độc. Nguyên do của việc chế định này là bởi vì sự than phiền của các cư sĩ đối với nhóm sáu tôi kheo. Nhóm sáu tôi kheo này thường du hành trong dân gian bất cứ vào mùa nào. Khi mùa mưa đến, họ dầm dạp chết vô số côn trùng. Các cư sĩ than phiền rằng những tu sĩ ngoài đạo hằng năm vẫn có ba tháng cố định tại một chùa, ngay đến các loài cầm thú vẫn còn có mùa trú ẩn của chúng, huống chi những người sa môn Thích tử lại không biết nghỉ chân vào mùa mưa, trái lại du hành bất cứ mùa nào. Đức Phật hay biết sự này, và Ngài đã khiển trách nhóm tôi kheo sáu người này.

Ở đây, chúng ta có thể rút ra hai nhận xét. Thứ nhất, sự than phiền của các cư sĩ chứng tỏ rằng an cư mùa mưa đã trở thành tập lệ chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái tôn giáo thời bấy giờ. Các tôi kheo do bội khước không chấp hành tập lệ này nên bị các cư sĩ chỉ trích. Thứ hai, sự khiển trách của Đức Phật chứng tỏ rằng mặc dù trước đó Ngài chưa quy định việc an cư mùa mưa, nhưng các Thánh tăng hay các tôi kheo sống tri túc và trì luật nghiêm chỉnh đều không đi lang thang trong các tháng mùa mưa. Như vậy, sự án định ba tháng an cư mùa mưa của Phật là hợp pháp hóa một thông lệ hay một tập tục đã được chấp nhận một cách tự nhiên giữa các tôi kheo nói riêng, và cũng chung cho mọi tu sĩ của các giáo phái ngoài đạo Phật đương thời.

Ý Nghĩa Sâu Sắc của Mùa An Cư

Tuy nhiên, xét theo thực tế, hình trì của giáo đoàn tăng lứa về việc an cư mùa mưa, thì sự an cư này không chỉ giới hạn bởi sự việc đi lại gây tổn hại cho các sâu bộ và các thứ cây cỏ có sinh tương nhiều trong mùa mưa. Tham khảo thêm trong các kinh điển, chúng ta sẽ thấy việc an cư còn có những mục đích khác hơn thế nữa.

Trước hết, một đoạn ngắn trong kinh Điều Giới Tôn có ghi sự kiến như vậy. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ. Trong một tiên kiếp xa xưa, lúc Đức Thích Tôn còn hành Bồ Tát đạo. Bây giờ Ngài thấy anh là vị đại thần có tên là Điều Giới Tôn. Vị đại thần này được mọi người tôn kính, cho rằng là đã tưng thấy Phạm Thiên. Nhưng thực tế thì Điều Giới Tôn chưa tưng thấy Phạm Thiên. Điều Giới Tôn tự suy nghĩ rằng, theo truyền thuyết các bậc tôn tục nói lại, nếu ai tu tập bốn vô lượng tâm trong suốt bốn tháng mùa mưa sẽ được diễn kiến với Phạm Thiên. Do vậy, đại thần Điều Giới Tôn xin phép nhà vua được nghỉ ngơi để có thể tu tập bốn vô lượng tâm trong suốt bốn tháng mùa mưa. Sau bốn tháng, quả nhiên Điều Giới Tôn được hội kiến với hình đông Phạm Thiên, và được Phạm Thiên địch thân giảng giải đạo lý cho.

Mùa an cư mưa là thời gian thích hợp cho sự tu tập và định tĩnh của các tôi kheoMùa an cư mưa là thời gian thích hợp cho sự tu tập và định tĩnh của các tôi kheo

Câu chuyện kể như vậy chứng tỏ việc an cư cố định tại một chùa để tự tập vào mùa mưa là một quan niệm đã có từ xưa, trước thời Đức Thích Tôn rất lâu xa. Cho nên, việc an cư, hạn chế sự đi lại trong mùa mưa, không chỉ vì tránh dẫm đạp vào côn trùng và cây cỏ có sinh tương nhiều trong mùa mưa. Mùa mưa còn được quan niệm từ xa xưa là thời gian thích hợp nhất cho sự tu tập để có những tiến bộ tâm linh đáng kể. Chính do điều này mà kinh Chính Pháp Niệm Xứ nói rằng vào thời kỳ an cư mùa mưa các tôi kheo ngoài trừ các việc đi lại và tiêu tiện, còn lại thường xuyên phải ngồi kiết định tại một chùa để tu tập thiền định. Điều này phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về mối liên hệ giữa thời gian tự nhiên và tiến độ tu tập tâm linh.

Ý Nghĩa Cộng Đồng và Hòa Hiệp

Ngoài ra, sự an cư mùa mưa còn có một ý nghĩa quan trọng khác nữa. Đó là biểu hiện cho tinh thần sống chung hòa hợp của cộng đồng tăng lứa tại một trú xứ. Điều này được thấy rõ trong luật Tứ phần. Lúc bấy giờ Đức Thích Tôn trú lại Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc. Sau ba tháng an cư mùa mưa, một số đông các tôi kheo ở Câu Tát La đến hầu thăm Ngài. Đức Thế Tôn theo thông lệ hỏi thăm đời sống của họ như thế nào trong ba tháng an cư. Họ trình bày với Ngài sinh hoạt thường nhật của họ. Theo đó, các tôi kheo này giao ước với nhau trong suốt mùa an cư rằng không ai nói chuyện với ai bất cứ điều gì. Nếu có những việc cần thiết mà người này cần đến sự giúp đỡ của người khác thì chỉ được phép ra dấu chỉ không được phép nói.

Sinh hoạt này cũng thường xảy ra giữa các nhóm tôi kheo và được biết nhiều nhất là nhóm ba tôi kheo dòng họ Thích gồm Tôn giả A Na Luật, Tôn giả Nan Độ và Tôn giả Kim Tự La. Các tôi kheo khi thì ở Bát Na Nạn Xá, khi thì ở Sa Kê Để và luôn luôn được Phật khen ngợi. Nhưng trong trường hợp các tôi kheo ở Câu Tát La này, thay vì được khen ngợi, đã bị Đức Thế Tôn khiển trách. Ngài nói các tôi kheo này là những người ngu si, sống chung như vậy là khó khăn nhưng lại tưởng là an lạc, chẳng khác nào những kẻ thú cùng sống trong một trú xứ.

Nhiệm vụ của các tôi kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tẩn nhau, chứ không thể sống như những người câm vối nhau. Việc giữ thầm lặng trong suốt ba tháng đó không chứng tỏ sự hòa hợp mà ngược lại còn biểu hiện một sự tách biệt và cách rời nhau.

Sự Cân Bằng Giữa Tu Tập Cá Nhân và Sống Chung

Cùng một lệ lễ sinh hoạt, nhưng có trường hợp Phật khen ngợi, có trường hợp bị Ngài khiển trách, thế nào vậy? Đức Phật luôn luôn ca ngợi đời sống trầm lặng của các tôi kheo, sống xa lánh những nơi ồn ào nào nhiệt. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa rằng một tôi kheo nên sống cách biệt ngoài cộng đồng tăng lứa. Sống chung và hòa hợp trong cuộc sống thắt thiệu cao cả, giáo giới và sách tẩn lẫn nhau, đó là sinh mệnh của tăng đoàn. Đời sống của một tôi kheo là sống không gia đình, không cố định vĩnh viễn tại một trú xứ nào, nhưng các tôi kheo được nối kết nhau thành một cộng đồng thống nhất bằng giới bốn mà họ phải cùng nhau hòa hiệp để tự độc lập trong mỗi nửa tháng. Và sự hòa hiệp này được cộng cố bằng ba tháng an cư vào mùa mưa.

Như vậy, an cư mùa mưa không phải đơn giản chỉ có nghĩa là hạn chế sự đi lại của các tôi kheo để tránh tổn thương cho các sinh vật bé nhỏ và các thứ cây cỏ có sinh tương nhiều trong mùa mưa. Trong lịch sử phát triển của đạo Phật, sinh hoạt an cư kiết hạ là một nhân tố tích cực để các đệ tử tại gia có điều kiện thuận tiện tham gia vào sự nghiệp cộng cỡ và phát triển giáo đoàn tăng lứa.

Tăng đoàn thanh tịnh và hòa hiệp là tiêu biểu của sức sống cụ thể của giáo pháp mà Đức Thích Tôn đã từng giảng dạy. Đó cũng là nơi nương tựa tinh thần vững chắc, và là niềm tin chân chính cho những người tại gia sống giữa cuộc đời hơn tạp, đầy những hạn thù và tranh chấp.

Tu Tập Liên Hệ Với Sự Gần Gũi Thiện Tri Thức

Một pháp tử tại gia, có niềm tin thuần tịnh trong sáng đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới luôn luôn được ghi nhận với bốn đức tính:

  • Thân cần thiện sĩ
  • Học hỏi Chính pháp
  • Suy nghĩ sâu sắc những điều mới học hỏi
  • Hành trì những điều đã được chiêm nghiệm

Trong bốn đức tính này, đức tính thứ nhất, thân cần thiện sĩ, tức gần gũi các bậc thiện tri thức, những bậc đạo cao đức trọng. Mỗi năm, vào mùa mưa, khi các tôi kheo tạm thời dừng chân tại một trú xứ, thì đây là thời gian mà những người tại gia có điều kiện thích hợp nhất để thường xuyên gần gũi các bậc thiện sĩ học hỏi Chính pháp.

Do thế, họ có thể phát huy các đức tính đặc trưng của một pháp tử tại gia có niềm tin thuần tịnh đối với Chính pháp. Nhìn vào thực tế này, chúng ta nhận thấy sự an cư kiết hạ của các tôi kheo không những có ý nghĩa riêng cho sự tu tập của chính họ, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự tu tập của cả cộng đồng Phật tử tại gia.

Ý Nghĩa Thực Hành và Lan Tỏa Chính Pháp

Trong thời gian Đức Thế Tôn còn tại thế, các pháp tử tại gia hoặc tự lực cá nhân nếu có đủ điều kiện, hoặc những người thân thuộc nhau hoặc những người cùng sống trong một làng, một thành phố, họp tác nhau thỉnh các tôi kheo về tại trú xứ của mình an cư kiết hạ, và hỗ trợ các tôi kheo các nhu cầu cần thiết để các Ngài có điều kiện thuận tiện cho sự tu tập suốt trong ba tháng mùa mưa. Các truyền kỳ của Phật giáo thuộc các nền văn học bằng sanh và bằng duyên thường ghi nhận có nhiều tôi kheo đã chứng đắc quả A La Hán trong thời gian an cư này, nhờ sự hỗ trợ của các cư sĩ về các nhu cầu hằng ngày.

Các pháp tử tại gia gần gũi thiện tri thức và học hỏi Chính pháp trong mùa an cưCác pháp tử tại gia gần gũi thiện tri thức và học hỏi Chính pháp trong mùa an cư

Một cộng đồng thanh tịnh và hòa hiệp, cùng học và cùng tu như sữa với nước vậy, quả là niềm tin và hy vọng cho con người sống giữa cảnh đời nào nhiệt, và nó chứng tỏ rằng Chính pháp mà Đức Thích Tôn đã giảng thuyết, nếu được thực hành một cách trọn vẹn, sẽ là cơ sở cho một thế giới an lành.

Đây là điều mà vua Ba Tư Nặc đã bày tỏ với Đức Thế Tôn về niềm tin của mình đối với Chính pháp được Thế Tôn giảng dạy và chứng đệ tử thực hành trọn vẹn.

Kết Luận: Duyên Khởi Sâu Xa và Ý Nghĩa Bền Lâu

Nói tóm lại, duyên khởi của sự An Cư Kiết Hạ, của chúng tôi kheo dù đơn giản được nói là do Đức Thế Tôn tuỳ thuận theo ước muốn của các đệ tử tại gia, nhưng trong ý nghĩa sâu xa thì nó là sinh mệnh tồn tại của Chính pháp được duy trì bằng đời sống thanh tịnh và hòa hiệp của cộng đồng tăng lứa. Chừng nào chúng tôi kheo còn nhiệt thành trong phần sự an cư ba tháng thì bây giờ Chính pháp vẫn còn là sức sống phong phú để loài người làm nơi quy ngưỡng và xây dựng một thế giới an lành.

Sự an cư kiết hạ là biểu hiện cụ thể của lối sống Phật giáo, là sự kết hợp hài hòa giữa tu tập cá nhân và đời sống cộng đồng, giữa nguyên tắc tránh gây tổn hại cho các sinh vật và mục đích nâng cao đạo tâm. Đó là cầu nối giữa các tôi kheo và các pháp tử, là dịp để cộng đồng Phật tử Việt Nam gần gũi, học hỏi và thực hành Chính pháp một cách trọn vẹn, từ đó góp phần xây dựng một xã hội nhân ái, an lành và hòa bình.


Tham khảo kinh điển:

(1) Tứ phần luật 37, An cư kỳ đề
(2) Trường A Hàm 5
(3) Dẫn bởi Tứ phần luật san phiên bộ khuyết hành sự sao, Thường 4
(4) Tứ phần luật 37, Tự Tứ Kiến Độ
(5) Trung A Hàm 17, Trường Thệ Vương Bản Khởi
(6) Trung A Hàm 18, Sa Kê Để Tam Mục Tính Tứ
(7) Trung A Hàm 59, Kinh Pháp Trang Nghiêm

Related posts

Tâm Oán Thù Xem Như Hết Thuốc Chữa

Administrator

Năm Khó Khăn Riêng Biệt Của Phụ Nữ Trong Giáo Pháp Phật

Administrator

Những Lời Phật Dạy Sâu Sắc Trong Kinh Pháp Cú

Administrator