Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Dukkha – Hình Thái Của Sự Bất An

Dukkha - Hình Thái Của Sự Bất AnDukkha – Hình Thái Của Sự Bất An

Nền Tảng Triết Học Phật Giáo

Trong tờng tuyển của Phật pháp, khái niệm “tôi tồn tại” không bao giờ được Đức Phật chấp nhận một cách tuyệt đối. Thay vào đó, Ngài chỉ ra rằng đằng sau sự suy nghĩ không có người nghĩ, hoặc “Cái Tôi” nghĩa là không tồn tại, bởi vì sự suy nghĩ và người nghĩ chỉ là một và luôn luôn biến đổi. Từ những nhận thức đó ta thấy vũ trụ quan của pháp Phật hoàn toàn trái ngược với ý tưởng mà Descartes nêu ra: “Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại” (Je pense, donc je suis). Phật giáo không phải là một quan điểm bi quan hay lạc quan, mà là một cách nhìn nhận thực đối với hiện trạng của con người và thế giới, đồng thời chỉ ra đường lối dẫn con người tới tự do, yên vui và hạnh phúc.

Trong kinh sách, khái niệm “khó chịu” được hiểu theo ba khía cạnh sau đây. Tìm hiểu ba hình thái của khó chịu này là bước đầu tiên để con người có thể nhận thức rõ về tính chất bất an của thế gian, và từ đó hướng tới sự giải thoát khỏi khổ đau.

Ba Khía Cạnh Của Dukkha

Khía cạnh thứ nhất: Khó chịu thông thường (Dukkha-Dukkha; Khổ-Khổ)

Trước hết, “khó chịu” thể hiện những nỗi khổ thông thường về cả thể xác và tinh thần mà con người gặp phải trong đời, có thể kể như: sinh, giá, bệnh, chết; chia ly với người thân yêu; mất đi những điều kiện mà mình ưa thích; niềm mong ước không thành vì công danh, phú quý hoặc tình duyên; phải gặp gỡ hoặc gần gũi những kẻ mà mình không ưa, hoặc cảm ghét, và rất nhiều những cơn khốn khó khác trong cuộc sống hằng ngày.

Khía cạnh thứ hai: Khó chịu do sự thay đổi (Viparinama-Dukkha; Hoại-Khổ)

Nỗi khó chịu còn được hiểu theo nghĩa là sự tiếc nuối hoặc nhớ nhung những cảm giác hoặc những điều kiện sống sung sướng mà con người đã có nhưng không tồn tại dài lâu như mong muốn. Khía cạnh này phản ánh thực tế rằng tất cả những gì tốt đẹp trong cuộc sống đều có thể mất đi bất cứ lúc nào. Vừa có được điều gì đó mà ta mong muốn, nhưng rồi lại mất đi, tạo ra sự hối tiếc sâu sắc trong tâm hồn.

Khía cạnh thứ ba: Khó chịu do luôn bị chi phối (Samkhara-Dukkha; Hành-Khổ)

Thứ ba là khía cạnh có ý nghĩa nhất của khái niệm “khó chịu” trong triết lý pháp Phật. Nó thể hiện ở chỗ con người luôn luôn bị thế giới bên ngoài chi phối và thế giới bên trong thối thúc, nên không còn được tự do và thường cảm thấy không yên ổn trong lòng. Đây là nỗi khó chịu do luôn luôn bị chi phối và thối thúc, nó có liên quan mật thiết tới khái niệm về “Cái Tôi”, còn gọi là “cá nhân” hay “thực thể”.

Theo triết học pháp Phật, “Cái Tôi” đó chỉ là một sự gắn ghép – kết hợp các năng lượng vật chất và tinh thần trong một điều kiện nào đó, tạo ra một sự biến đổi liên tục. Sự gắn ghép ấy được thực hiện bởi năm yếu tố ràng buộc, “năm nhóm” (Pañcakkhandha; Ngũ Uẩn).

Năm Uẩn: Cơ Sở Hình Thành Của Sự Bất An

Năm yếu tố ràng buộc gồm: thứ nhất là mộ ràng buộc vật chất (Rūpakkhandha; Sắc Uẩn). Thế giới vật chất gồm bốn yếu tố lớn: rắn, lỏng, sức nóng và chuyển động. Bốn yếu tố này cùng với các cơ quan tương ứng trong cơ thể, mà thông qua các cơ quan ấy con người có thể cảm thụ, nhận biết và có khả năng kiểm soát và phát triển cảm thụ và nhận biết. Tất cả những cái đó hình thành cái gọi là “mộ ràng buộc vật chất”. Mộ ràng buộc vật chất này bao gồm toàn bộ các lĩnh vực vật chất bên trong và bên ngoài cơ thể con người liên quan với nhau trong quá trình cảm thụ và nhận biết.

Thứ hai là mộ ràng buộc cảm giác (Vedanākkhandha; Thụ Uẩn). Mộ ràng buộc này tạo ra ba loại cảm giác: thích, không thích và chăng thích cũng chăng không thích (trung tính). Tuỳ theo cơ quan thể xác hoặc tâm thức nào liên hệ với thế giới bên ngoài gây ra cảm thụ, ta chia ra sáu loại cảm thụ: cảm giác này sinh lúc nhìn, cảm giác này sinh lúc nghe, cảm giác này sinh lúc ngửi, cảm giác này sinh lúc nếm, cảm giác này sinh lúc chạm, cảm giác này sinh lúc nghĩ tính. Duy thức học gọi các cảm thụ ấy là những tâm sở.

Thứ ba là mộ ràng buộc về sự nhận biết, nghĩ tính (Saññākkhandha; Tưởng Uẩn). Đây là mộ ràng buộc mô tả sự nhận biết khi gặp đối tượng vật chất hoặc tâm thức nhờ có sự liên tưởng những ký ức đã tích luỹ từ trước. Khi nhận biết một chiếc ghế, chúng ta không chỉ nhìn thấy một vật thể mà là gọi lên những ký ức liên quan từ quá khứ, từ đó nhận biết nó là chiếc ghế.

Thứ tư là mộ ràng buộc đặc trưng cho hành vi của ý thức, sự thối thúc từ bên trong dẫn tới hành động, hay là ý chí (Saṃkhārakkhandha; Hành Uẩn). Đây là động cơ hành động tạo ra hiệu quả (Kamma; nghiệp quả). Hiệu quả có thể là lành, hay dữ, hay chăng là lành cũng chăng dữ (trung tính), tuỳ theo hành động xuất phát từ hành vi của ý thức hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc trung tính. Người ta đã liệt kê được mười hai loại hành vi ý thức có thể tạo ra hiệu quả, thể hiện qua mười hai hình thái tinh thần sau đây: chủ ý, ý chí, quyết tâm, tin cậy, trí năng, nghị lực, ham muốn, cảm ghét, ngu dốt, khoe khoang, dính mắc “Cái Tôi”, gom tâm (tập trung tâm trí).

Mộ ràng buộc thứ năm là sự để ý một đối tượng bất kỳ nào đó khi đối tượng ấy xuất hiện trong mội tương quan với chủ thể, hoặc xuất hiện một mình trong ý thức (độc đầu ý thức), gọi là “mộ ràng buộc để ý” (Viññāṇakkhandha; Thức Uẩn). Tuỳ theo điều kiện của đối tượng bên ngoài hay bên trong làm nảy sinh sự để ý này ta có thể chia ra sáu loại hoạt động của mộ ràng buộc để ý sau đây: để ý nhìn, để ý nghe, để ý ngửi, để ý nếm, để ý sự chạm, để ý diễn biến trong tâm thức.

Đức Phật chỉ rõ rằng sự có mặt của mộ ràng buộc thứ năm (tâm kỳ hiệu bằng chữ “Y”) phụ thuộc một trong bốn mộ ràng buộc nói trên (sắc, thụ, tưởng, hành uẩn) (tâm kỳ hiệu bằng chữ “X”) theo ba kiểu thức sau đây: một là “X” là phương tiện cho sự có mặt của “Y”; hai là “X” là đối tượng cho sự có mặt của “Y”; ba là “X” là chỗ dựa cho sự có mặt của “Y”. Trong khi tìm kiếm hướng thụ của các mộ ràng buộc có thể nảy ra, lớn lên và mở rộng.

Năm mộ ràng buộc này bao chùm hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ. Mộ ràng buộc thứ nhất chỉ mang tính vật lý và đại diện cho vật chất. Còn bốn mộ ràng buộc còn lại có liên quan tới tâm trí nên mang tính tâm lý. Như vậy năm mộ ràng buộc này bao chùm hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ.

Con Đường Dẫn Tới Bất An

Như trên đã nói, cái mà ta quen gọi là “Cái Tôi” (Ngã), hoặc “cá nhân”, hoặc “thực thể” thật ra chỉ là một nhãn hiệu, hoặc một cái tên gọi gán cho sự gắn ghép nhất thời của năm yếu tố này mà thôi. Chính năm yếu tố này lại luôn luôn biến đổi và sự gắn ghép giữa chúng cũng không cố định chút nào, cho nên “Cái Tôi” là vô thường (chăng còn mãi). Đức Phật dạy rằng: “Tất cả là vô thường (chăng còn mãi). Còn dính mắc vào “thường” là khổ đau.”

Ở khoảnh khắc (sát na) này năm yếu tố và sự gắn ghép giữa chúng không còn giữ nguyên như ở khoảnh khắc liền ngay trước. Do vậy vũ trụ là một dòng chảy liên tục và không còn mãi (vô thường), tuân theo quy luật “chuỗi nhân quả”: Sự vật hiện diện đang có mặt là kết quả của những sự vật có trước, đồng thời là nguyên nhân cho sự có mặt của các sự vật có sau. Đằng sau dòng chảy này chăng có cái gì có bản chất không thay đổi (bất biến), chăng có cái gì có thể thực sự được coi là “Cái Tôi” còn mãi (hay linh hồn vĩnh cửu) cả.

Nhưng khi năm yếu tố vật chất và tâm trí cũng hoạt động lệ thuộc nhau trong một mội quan hệ gắn ghép, hình thành một mặt cơ cấu tâm – sinh – lý hoặc một thực thể nhất thời và tương đối thì dễ đưa đến sự nhận lầm, thậm chí dính mắc với ý niệm cho rằng có thật “Cái Tôi”, hoặc “Cá Nhân” (Sakkaya; Ngã Chấp). Từ đó đưa tới những hành vi muốn tạo nghiệp. Tóm lại, sự dính mắc với ý niệm lầm lẫn rằng thật sự có mặt “Cái Tôi” đã đưa đến nỗi khó chịu trong lòng (Dukkha; Khổ) mà con người phải chịu đương.

Ở đây cũng cần nhắc lại rằng chỉ nỗi khó chịu hình thành bởi năm yếu tố luôn luôn biến đổi do nghiệp lực chuyển hóa mà thôi, chứ tuyệt nhiên không thể tìm thấy “Cái Tôi” nào cả. Cũng vậy, đằng sau sự suy nghĩ không có người nghĩ, hoặc “Cái Tôi” nghĩa là không tồn tại, bởi vì sự suy nghĩ và người nghĩ chỉ là một và luôn luôn biến đổi. Từ những nhận thức đó ta thấy vũ trụ quan của pháp Phật hoàn toàn trái ngược với ý tưởng mà Descartes nêu ra trong câu nói: “Tôi tư duy (suy nghĩ), vậy là tôi tồn tại” (Je pense, donc je suis).

Kết Luận

Hiểu rõ ba khía cạnh của Dukkha giúp ta nhận thức sâu sắc về tính chất bất an của hiện tượng, của sự gắn ghép năm uẩn và những cơn khổ trong cuộc sống. Từ sự nhận thức này, người tu học có thể hướng tâm tới việc tuân theo Tám Chánh Đạo để giải thoát khỏi nỗi khổ đau. Pháp Phật không phải để ta chìm đắm trong sự bi quan, mà là để chỉ rõ nguồn gốc của khổ đau và con đường dẫn tới lạc thú thực sự – trạng thái Nirvana, nơi không còn bất an, không còn khổ đau, là tự do tuyệt đối mà mỗi người tu học đều có thể chứng đạt được.

Related posts

Đối Thoại Giữa Phật Giáo và Khoa Học: Những Điểm Tương Đồng Sâu Sắc

Administrator

Người Làm Vườn Của Vua Cúng Dâng Hoa Được Thí Kỳ Thành Phật

Administrator

Luân Hồi Tái Sinh Qua Ba Kiếp Con Dê: Nghiệp Báo Không Thể Trốn Tránh

Administrator