Kinh Đại Bát Niết Bàn là bộ kinh ghi lại những lời giáo huấn cuối cùng của Đức Phật cho hàng đệ tử trước khi nhập Niết Bàn. Kinh này thuộc hệ thống kinh điển Bắc truyền, được chia thành Nam truyền Niết Bàn và Bắc truyền Niết Bàn. Tuy có khác biệt về hình thức, nội hàm của kinh vẫn giữ nguyên. Nội dung phương pháp tu tập trong kinh đề thực hành ba yếu tố chính: chính tri kiến trong nhận thức, sự nương tựa cao quý khi Như Lai nhập diệt, và con đường phạm hạnh thanh tịnh.
Đại Bát Niết Bàn Kinh là bộ kinh ghi lại những lời giáo huấn cuối cùng của Đức Phật
Tổng Quan Về Đại Bát Niết Bàn Kinh
Giải thích đề kinh
Kinh Đại Bát Niết Bàn, hay Mahā Parinirvāṇa sūtra, là tên chung của Thánh giáo. “Đại” có nghĩa là lớn, còn “Bát Niết Bàn” nghĩa là diệt độ. Đại còn có nghĩa là Pháp thân, vì vậy kinh nói: “Gọi là Đại, tức là tính của nó rộng toang giống như hư không, tính đó tức là pháp tính, pháp tính tức pháp thân”. Diệt tức là giải thoát – giải thoát phiền não và sanh tử dục hạn, khoái hoán lấy của nhân quả nơi thế gian nầy. Nói là độ, tức là Ma-ha Bát-nhã, do đó Đại luận nói: “Tin là có thể nhập, trí có thể độ”.
Lịch sử truyền thừa và phiên dịch Đại Bát Niết Bàn kinh
Kinh Đại Bát Niết Bàn Kinh được chia thành Nam truyền Niết Bàn và Bắc truyền Niết Bàn. Nam truyền Niết Bàn là bộ kinh ngắn trong tạng Nikaya ghi lại những lời dạy cuối cùng của Thế Tôn trước khi diệt độ. Bắc truyền Niết Bàn là sự hợp bộ của Đại Bát Niê-hoàn kinh 6 quyển do đại sư Pháp Hiển dịch với bộ Niết Bàn kinh 40 quyển của Đậm Vô Xâm (385-433) do các ngài Tụy Quán, Tụy Nghiêm, Tạ Linh Vân biên soạn tại Giang Nam.
Vào năm 422 niên hiệu Huyền Thỉ thứ 10, Đậm Vô Xâm đã hoàn thành bản dịch từ tiếng Phán sang tiếng Hán. Toàn bộ Bắc bản có 13 phẩm chia thành 40 quyển được các ngài Tụy Trung và Đạo Lãng ghi chép lưu truyền đến ngày nay.
Kinh Đại Bát Niết Bàn hàm chứa vô lượng nghĩa lý cao thâm của Phật giáo Đại thừa
Về hình thức, bản Nam khác Bắc chủ yếu về trình bày. Bản Bắc vì do ngài Đậm Vô Xâm dịch nên lời văn giữ lại nguyên bản theo Phán ngữ. Bản Nam do ngài Pháp Hiển dịch nên lời văn có thêm một vài mục để phù hợp với văn phong truyền thống của văn học Trung Hoa (có thêm phần tựa). Do đó, không nên so sánh sự sai khác hình thức và nội dung của hai bản dịch mà sanh ra phân tích đúng sai khác biệt giữa hai bản.
Tại Việt Nam, bản Nam do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt ngữ phân là 42 quyển chia thành 2 tập 29 phẩm. Bắc bản do Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch ra Việt ngữ với 40 quyển chia là 13 phẩm.
Phương Pháp Tu Tập
Sự nương tựa cao quý khi Như Lai nhập diệt
Những việc cần làm của đại chúng khi Đức Như Lai nhập diệt được Đức Phật căn dặn đầy đủ trong các phẩm Kinh, trong đó có Phẩm Di Giáo – Phẩm thứ hai mươi sáu. Lúc bấy giờ, ngài A Nan và đại chúng thưa hỏi Đức Phật bốn điều quan trọng về cách hành xử sau khi Phật nhập Niết Bàn.
Từ những câu hỏi trên, Đức Phật đã lần lượt ân cần chỉ dạy đại chúng những nghĩa lý tối hậu, nhờ đó giải quyết hết thảy nghi lắm, lấy đó làm chủ chế sơ y trên bước đường tu tập khi sắc thân Như Lai không còn hiện hữu trên đời.
Ngoài ra, khi hành trì độc tụng, người viết có nhận thấy chủ nương tựa cao quý khi Đức Phật nhập diệt chỉ có trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, chính là Tứ y pháp. Trong Phẩm Tứ y – thứ tám, ngài Ca Diếp Bồ tát thuật lại lời dạy của Đức Phật: “Các Tỳ kheo phải y theo bốn điều: Y theo pháp không y theo người, y theo nghĩa không y theo lời, y theo trí không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa không y theo kinh chứng liễu nghĩa”.
Đức Phật đã giảng giải căn kỹ Tứ y pháp trên, đơn cử như trong việc y theo pháp không y theo người: “Nếy là người phá giới vì lợi dương mà nói Như Lai là vô thường biến đổi, thời không nên nương tựa với người ấy”. Ở đây nhấn mạnh người phá giới và ham mê lợi dương, giảng dạy Phật pháp một cách lệch lạc, văn nghĩa không chuẩn xác thì không nương tựa. Đây là điều hết sức quan trọng trong quá trình tu tập của một hành giả, vì nếu không hiểu sâu sắc nghĩa lý trên, rất dễ đi vào con đường tà kiến, hành trì sai lầm.
Chính tri kiến trong nhận thức
Toàn bộ hệ thống giáo lý Đức Phật chỉ dạy là những phương pháp tu tập và hành trì, chuyển hóa tâm thức nhiễm ô thành thanh tịnh, từ phàm phu ngu si bước lên địa vị bậc Thánh, từ phiền não khổ đau thành Niết Bàn an lạc. Trong quá trình tu tập, khi nhận thức đúng đắn, có chính tri kiến, thì hành giả mới có thể bước vào đạo lộ giải thoát.
Bốn pháp Thường, Lạc, Ngã, Tịnh được nhấn mạnh trong Kinh Đại Bát Niết Bàn. Khi nhận thức đúng đắn về bốn pháp trên, hành giả không còn nghi tâm, không có sự chấp thủ, bám vương, trí tuệ sáng suốt, vững bước trên con đường học Bồ tát hạnh tu Bồ tát Đạo. Trong phẩm Thánh hạnh – thứ mười chín, Đức Phật dạy cho Ca Diếp Bồ tát và đại chúng về ý nghĩa chữ “Thường” chỉ cho Phật tính không biến đổi; Như Lai pháp thân không biến đổi, thường trú tịch diệt; Tam bảo – Phật, Pháp, Tăng cũng mang ý nghĩa thường trú không biến đổi.
Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, “Lạc” chỉ cho sự an vui tối thường khi đoạn trừ tất cả phiền não, thành tựu hết thảy công hành Bồ tát và giáo hóa vô lượng chúng sanh. “Ngã” chỉ cho Phật tính, Như Lai tạng, Đức Phật dạy Ca Diếp Bồ tát: “Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tính tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đắp, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được”. Chữ “Tịnh” chỉ cho sự thuần khiết, không ô nhiễm, trong sạch hoàn toàn.
Toàn bộ hệ thống giáo lý Đức Phật chỉ dạy là những phương pháp tu tập và hành trì
Bốn pháp Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chỉ cho đức tính của Đại Bát Niết Bàn. Chỉ có hàng đại Bồ tát mới thể nháp thấu suốt bốn pháp Thường, Lạc, Ngã, Tịnh: “Lại này thiện nam tử! Vô số đặc của Đại Bồ tát gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì Đại Bồ tát thấy Phật tính nên đắng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Do đó nên gọi Bồ tát là Vô số đặc”.
Phật tính và Nhất-xiá-đế
Nhất-xiá-đế là khái niệm mới trong Kinh Đại Bát Niết Bàn. Nhất-xiá-đế chỉ cho hàng hữu Phật tánh, không thể phát tâm Bồ Đề, khó có khả năng tu tập thành Phật; dù có tu tập cũng rất là lâu xa mới có kết quả. Kinh vận: “Hàng Nhất-xiá-đế đoạn diệt tất cả căn lành, tâm họ không vin niệu tất cả pháp lành, nhẫn đến không sanh một niệm lành”.
Trong chính kinh nhiều lần Đức Phật đưa ra các định nghĩa về Nhất-xiá-đế, cũng như tâm xu hướng đến Nhất-xiá-đế: “Phật báo Thuận Đà: Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, ưu bà tắc, ưu bà di, nói lời thô ác, chê bai chính pháp, tạo tội nặng nề, trần chẳng đạn năn, tâm không hộ thần, người như vậy gọi là xu hướng con đường Nhất-xiá-đế. Nếu người phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, tự quyết định biết phạm tội trọng như vậy, mà tâm chẳng biết sợ sệt hộ thần, chẳng bằng lòng phát lộ, ở nơi chính pháp trần không lòng hộ trì kiến lập, chê bai khinh tiện, nhiều lời lối lầm, người như vậy cũng gọi là hướng đến đường Nhất-xiá-đế. Nếu lại có người nói rằng: Không Phật, không Pháp, không Tăng, người như vậy, cũng gọi là hướng đến đường Nhất-xiá-đế.”
Nếu như hiểu Phật tính là khả năng có thể thành Phật ẩn tàng trong mỗi chúng sanh, thì dù hàng Nhất-xiá-đế, hay có tâm xu hướng đến Nhất-xiá-đế cũng đều là chính nhân cho sự giác ngộ giải thoát. Hàng Nhất-xiá-đế chia ra là hai: Một là hàng đắng căn lành hiện tại, hai là hàng đắng căn lành đời sau.
Đức Như Lai biết rõ hàng Nhất-xiá-đế những kẻ hiện tại có thể đắng thiện căn thời thuyết pháp cho. Những kẻ đời sau đắng thiện căn thời Đức Phật cũng thuyết pháp cho họ, nay dầu vô ích nhưng để là nhân cho đời sau. Do đây nên Đức Như Lai vì hàng Nhất-xiá-đế mà giảng thuyết pháp yếu. Lại có hai hàng Nhất-xiá-đế: Một là hàng lợi căn, hai là hàng trung căn. Hàng lợi căn nơi đời hiện tại có thể đắng thiện căn, hàng trung căn thời đời sau sẽ đắng. Chỉ Phật không bao giờ thuyết pháp mà không lợi ích.
Tương quan Phật tính và Nhất-xiá-đế được chính kinh đề cập rất nhiều. Đức Phật đã vì đại chúng, khéo léo giải thích tương tận, cũng như chỉ rõ những quan điểm sai lầm, con đường lệch lạc dẫn dắt hành giả rơi xa thành Đạo.
Con Đường Phạm Hạnh Thanh Tịnh
Phát tâm lập nguyện của các vị Bồ tát
Đọc qua Kinh Đại Bát Niết Bàn, chúng ta dễ dàng thấy được những hình ảnh hết sức gần gũi của các vị Đại Bồ tát, với những lời phát nguyện tha thiết hộ trì Chính pháp trước Đức Phật cũng như đại chúng. Những hành giả đang bước đi trên con đường học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát Đạo sẽ lấy đó làm nền tảng, làm sở nhân trong quá trình tu tập.
Tâm phát thì chúng sanh mới có thể độ, nguyện lập thì Phật Đạo mới có thể thành. Bước đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của một hành giả tu theo Đại thừa là phát Bồ Đề tâm – phát tâm, lập nguyện, với mong muốn thường cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh. Chỉ khi phát tâm, lập nguyện hành giả mới có con đường, mục tiêu để đi, có đích để đến, không như thế thì Thành Đạo khó thành, thậm chí bị sa đọa.
Đơn cử như trong Phẩm Sư Tử Hống Bồ tát – thứ hai mươi ba, Đức Phật có dạy cho Sư Tử Hống Bồ tát và đại chúng lời phát tâm, lập nguyện của chư Đại Bồ tát: “Lại nguyện rằng: Mong chư Phật, chư Bồ tát luôn có lòng hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếu có chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đối với kẻ nầy, tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn công hành Bồ Đề. Nếu không có họ, tôi làm sao được quả vô thường Bồ Đề. Lại nguyện rằng: Đời đời tôi được khỏi những thân nữu, thân hai căn, không căn; không bị làm nô lệ, không gặp chủ hung ác, không thuộc dưới quyền vua chúa ác; chẳng sanh vào nước ác. Nếu được thân xinh tốt, dòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôi không có lòng kiêu mạn. Nguyện tôi thường được nghe mười hai bộ kinh và thỉ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giảng thuyết cho chúng sanh, nguyện cho tín sâu Đó đều kính tin không nghi, chúng sanh ác tâm đối với tôi…”
Phát tâm, lập nguyện là bước đầu tiên nung nấu ý chí mãnh liệt để thực tập và hành trì. Khi tâm nguyện đủ lớn, trong quá trình thực tập, dù có gặp chướng duyên, khó khăn, tráy trở như thế nào cũng cố gắng vượt qua, hoàn thành tâm nguyện chính là đích đến của Niết Bàn an lạc.
Huấn tu Lục Độ vận hành, các công đức thù thắng
Quá trình tu tập của một hành giả đi từ nhận thức đúng đắn đến hành động đúng đắn. Khi hành giả đã có đầy đủ những hình trang từ lực lượng, từ sự nương tựa cao quý khi Đức Phật nhập diệt, đến Chính tri kiến trong nhận thức và sự phát tâm lập nguyện; việc thực hành Lục Độ vận hành (Bố thí, Trì giới, Nhân nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ) cũng như huấn tu các công đức thù thắng khác, là một quá trình đầy gian nan, như người lợi vào biển lớn, khó sang đến bờ bên kia.
Gọi là huấn tu, vì các công hành không thể thành tựu trong sớm chiều, mà phải tích lũy các Ba-la-mật trong vô số kiếp. Nhờ sức hộ trì của Tam bảo cũng như sự nỗ lực nơi tự thân, hành giả dần bước vào đạo lộ của bậc Thánh – con đường Đức Phật đã đi, đích Đức Phật đã đến.
Khảo sát qua Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã chỉ dạy tận tình, tỉ mỉ cho thị chúng những việc cần làm để huấn tu, thành tựu các công đức linh. Đơn cử như: “Phật báo Ca Diếp Bồ tát: Đại Bồ tát phải nên ở nơi kinh Đại Niết Bàn này chuyên tâm tư duy năm thứ hạnh: Một là Thánh hạnh, hai là Phạm hạnh, ba là Thiền hạnh, bốn là Anh nhi hạnh, năm là Bệnh hạnh. Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát thường nên tu tập năm thứ hạnh này. Lại có một hạnh, chính là Như Lai hạnh, cũng chính là kinh Đại thừa Đại Niết Bàn”.
Trong các hạnh mà Thế Tôn chỉ dạy (Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiền hạnh, Anh nhi hạnh, Bệnh hạnh) có đầy đủ quá trình tu tập Lục Độ vận hành của một vị Bồ tát. Khi tu tập chắc chắn sẽ nảy sinh nhiều nghi tâm, sự chướng duyên, ma sức. Bằng trí tuệ thâm thâm không thể nghĩ bàn, Đức Như Lai bậc nhất thiết trí đã khéo léo giảng giải, giúp đại chúng dứt sạch chướng nghi, sanh hỷ tâm. Hành giả trải qua vô số kiếp thực tập và hành trì, chứa đủ các công hành sẽ trở thành bậc Vô thường Chính Đắng Chính giác.
Kết Luận
Kinh Đại Bát Niết Bàn chứa đựng nhiều nghĩa lý uyên áo, tiến trình nhận thức và con đường thực tập phạm hạnh của một hành giả được Đức Phật chỉ dạy căn kỹ. Tùy vào năng lực của mỗi cá nhân, hành giả cần thỉnh độc tụng, khéo tư duy nghĩa lý kinh và nỗ lực thực tập. Thành Phật – thể nhập Đại Bát Niết Bàn, là kết quả cuối cùng, là đích đến mà một hành giả tu theo giáo lý Phật Đà luôn hướng tới. Khi tu tập theo chỉ dạy của Kinh Đại Bát Niết Bàn, hành giả sẽ hiểu rõ rằng Niết Bàn không phải là sự tồn tại hay không tồn tại, mà là trạng thái vượt khỏi mọi khống chế, tự tại hoàn toàn, an lạc tối thương.