Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Bình Đẳng Trong Phật Giáo: Giáo Lý Về Ngang Bằng Con Người

Sự giác ngộ của Đức Phật là một sự kiện quan trọng nhất của tín đồ Phật giáo, bởi từ sự giác ngộ ấy mà giáo pháp được truyền bá cho đến ngày nay. Từ ánh sáng của tuệ giác ngộ đại của Phật, con người hiện nay đã thừa hưởng được một di sản tiến bộ về đại từ “bình đẳng”, bình đẳng trên cả phương diện xã hội lẫn giải thoát tâm linh. Khái niệm “bình đẳng” này ra đời trong lòng xã hội ân độ được phân tầng thành bốn giai cấp, bốn tầng lớp với những thiết chế chính trị – xã hội bắt cộng. Với ánh sáng của trí tuệ giác ngộ, Đức Phật đã xóa ranh giới giai cấp, thiết lập nhận thức bình đẳng cho những ai đến với giáo pháp của Ngài, từ giới tu sĩ đến hàng cơ sở và quần chúng nhân dân.

Nhận Thức Về Bình Đẳng Trong Phật Giáo

“Bình đẳng” có nghĩa là ngang bằng hoặc bằng nhau. Thuật ngữ này đã trở thành một học thuyết quan trọng, là học thuyết bình đẳng giữa con người với nội hàm bao quát các hình thái xã hội. Một khi đề cập đến vấn đề bình đẳng, điều đó có nghĩa là đã có sự hiện hữu của bất công xã hội, đã có sự phân tầng giai cấp. Vì mang tính xã hội – giai cấp, tính bình đẳng trong nhận thức của con người vẫn chưa thoát ra được ý thức xã hội hiện tượng. Với một hình thái xã hội nào thì sẽ có ý niệm về bình đẳng tương ứng, điều đó đã làm cho học thuyết bình đẳng đi đôi với đấu tranh giữa các giai cấp về bất động lợi ích.

Trong Phật giáo, tính bình đẳng được lột tả rõ nét ngay từ buổi sơ kỳ, khái niệm “bình đẳng” dưới tuệ nhìn của Đức Phật đã mang đến một hàm nghĩa mới, tiến bộ và nhân văn. Phật giáo không đề cao giai cấp, ngược lại chính Phật giáo xiển dương các yếu tố liên quan đến con người mà yếu tố bình đẳng đã được nhận mạnh hơn hết với tinh thần không có sự sai khác giữa những con người có dòng máu cùng độ và nước mắt màn.

Không như những tư tưởng, học thuyết hay những tôn giáo khác, trước nhất, nhìn nhận con người với một ý niệm về sáng tạo chủ hay với một ý niệm thần quyền tối thượng chi phối sự phân con người, để rồi nhìn nhận sự phân con người như một định phận bất dịch, bất biến và xem con người là sản phẩm của sáng tạo chủ; từ đó, con người được bình đẳng dựa trên ý chí chủ quan của đấng tạo hóa, của sự phân tầng trong xã hội với những đạo danh định phận khác nhau. Phật giáo thì ngược lại, Đức Phật không nhìn nhận con người là một sản phẩm của thần linh, là công cụ của giá trị thần quyền.

Ở nhiều phương diện, tinh thần bình đẳng luôn là mục tiêu hướng tới của nhân loại, và cũng vì tinh thần đó, các khía cạnh xung đột, đấu tranh xã hội xảy ra như một hệ quả tất yếu cho những nguyên nhân bất bình đẳng. Ngay từ thời cổ đại, các cuộc đấu tranh giữa các giai tầng xã hội đã diễn ra và tiếp nối đến một chiều dài lịch sử và tương ứng với nhiều hình thái xã hội khác nhau. Bất cứ ở đâu, sự đấu tranh cũng xuất hiện ở nơi bất bình đẳng. Nói vậy để thấy rằng, bình đẳng là thước đo cho sự tiến bộ của một xã hội.

Nhưng học thuyết bình đẳng trong Phật giáo không được xác lập qua đấu tranh; ngược lại, nó được biểu hiện bằng con đường luận lý, cốt yếu là làm cho con người hiểu rõ về bản chất thực tại của mình, về sự sai khác của nghiệp báo, về sự bất động về màu da, chủng tộc. Hiểu được luận lý đó, con người sẽ có thể cảm thông và tự ái với nhau, đó mới là bình đẳng thực chất và cũng là luận lý chung nhất của Phật giáo.

Tư Tưởng Bình Đẳng Trong Phật Giáo So Với Những Tư Tưởng, Tôn Giáo Khác

Tư tưởng bình đẳng trong Phật giáo là một phẩm trù mang tính giáo lý nên có sự khác biệt so với các tư tưởng khác cùng thời, đây là một hệ quả tất yếu. Trong sự tồn tại và cũng phát triển đó, tư tưởng Phật giáo khác biệt với các tư tưởng Bà-la-môn giáo, Khổng giáo hay một số triết gia Hy Lạp cổ đại như Socrates.

Ngôi chùa tỏa ánh nắng vàng với kiến trúc Á Đông truyền thống, bao quanh những cây xanhNgôi chùa tỏa ánh nắng vàng với kiến trúc Á Đông truyền thống, bao quanh những cây xanh

Thứ nhất, nói về tư tưởng Bà-la-môn, tư tưởng này chủ trương bốn giai cấp có giá trị bất di bất dịch trong xã hội Ấn độ, trong đó, Bà-la-môn là giai cấp cao quý nhất và thuần tịnh nhất. Giai cấp này đòi hỏi sự phục tùng của các giai cấp dưới, đặc biệt về mặt tư tưởng. Trong bốn giai cấp đó, giai cấp Thứ-đà-la mất hết quyền tự chủ tinh thần. Như vậy, có thể thấy, tư tưởng Bà-la-môn phân chia con người thành các tầng lớp thường đẳng – hạ đẳng. Đức Phật vừa lên tiếng, “Này Bà-tư-tra, nếu ai chủ trương thế sanh, chủ trương chủng tộc, chủ trương kiêu mạn, người ấy cách biệt quá xa đối với sự chứng đắc Minh Hánh vô thượng cộng của Ta”.

Tuy nhiên, sự tiến bộ trong tư tưởng Phật giáo không dừng lại ở sự công nhận những giá trị xã hội của một con người, mà Đức Phật còn đưa ra luận điểm mới con người đều có quyền sống hạnh phúc, mỗi con người đều có cơ hội giải thoát khổ đau nếu như chịu thực hành phạm hạnh. Đây là một cuộc cách mạng tâm linh, bởi trước đó, tư tưởng Bà-la-môn chủ trương giai cấp thường hạng, nghĩa là giai cấp thuần tịnh thì mãi thuần tịnh, giai cấp tiến dân thì mãi tiến dân, và vì thế họ đóng lại cánh cửa của chứng ngộ tâm linh với giai cấp hạ đẳng.

Đức Phật bằng tuệ giác, Ngài đã tuyên bố, “Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thể hướng chân chính thì Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cơ sĩ hay Công sĩ nếu hướng đến chân chính cũng được sự hiểu biết khéo léo và tự tri đúng như pháp”. Có thể nói, Đức Phật đã tạo ra cuộc đại cách mạng tâm linh trong dòng chảy tín ngưỡng của xã hội Ấn độ, sự tiến bộ này đại diện cho ước mơ của toàn nhân loại chứ không riêng gì giai cấp bần dân Ấn độ, bằng chứng là khi Phật giáo truyền ra khỏi biên thổ nước nhà đã được nhân dân các nước đón nhận, đặc biệt là giai cấp bình dân, họ đón nhận Phật giáo như chỗ dựa tinh thần, như một trú đỉa từ bi đó nương náu.

Nói đến những tư tưởng ngoài Ấn độ, mặc dù Đức Phật không đề cập trực tiếp, nhưng nếu đối chiếu với Phật giáo vẫn có thể thấy nhiều điểm khác biệt, đặc biệt là với Khổng giáo chủ trương thuyết chính danh để xác lập mối tương quan xã hội. Khi Tử Lộ hỏi Khổng Tử sẽ làm gì khi được vua nước Vệ mời về giúp cai trị, Khổng Tử đã nói, “Ấy ta sẽ làm cho ra chính danh chính phần”. Và ông giải thích rằng, “Người quản tử hễ điều gì chẳng biết thì bỏ qua mà chẳng nói. Này, nếu danh mà chẳng chính, chẳng hạp nghĩa, thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận thì công việc chẳng thành”.

Nhận xét về thuyết này, theo Nguyễn Hiến Lê, “Thuyết chính danh của ông (Khổng Tử) để ra thuyết giết một báo chưa là giết một tên thật phu của Mạnh, bắt bỏ quyền pháo phải có đức, phải thương dân; ông điều chỉnh lại quyền lợi, nghĩa vụ của vua tôi”. Tuy nhiên, hạn chế của thuyết chính danh chính là tinh thần bình đẳng xã hội từ học thuyết này phần nào làm con người trong xã hội có ý tưởng an phần, quá chú trọng tính trật tự tự xã hội nên người nào chỉ cần làm trọn bốn phần của người đó, vì thuyết chính danh không thể tách rời học thuyết “thiện mệnh” và các cơ chế bắt buộc như Tam cương – là mỗi quan hệ giữa vua – tôi, cha – con, vợ – chồng, ba mối quan hệ này nhiều khi trở thành gánh nặng luân lý vô hình, khi sự phục tùng của người dưới như “Tôi – Con – Vợ” đối với người trên “Vua – Cha – Chồng” trở thành khắc nghiệt và giáo điều; chính vì vậy đã ít nhiều hạn chế sự tiến bộ trong học thuyết của Khổng Tử. Phê phán học thuyết Khổng Tử có tư tưởng Hàn Phi Tử, vốn chủ trương pháp trị, ông cho rằng, “…vị vua chưa có đạo thì tránh xa nhân nghĩa, gạt bỏ khôn ngoan, tài giỏi, mà dùng pháp luật làm cho người ta phục theo”.

Như vậy, đủ thấy không chỉ riêng xã hội Ấn độ mà ở xã hội Trung Hoa cũng vậy. Với việc Phật giáo gộp mình vào hệ thống tư tưởng đa dạng này, Đức Phật đã nêu lên quan điểm riêng biệt về các ý thức hệ của cá nhân cũng như xã hội. Ngài đã bác bỏ quan niệm định khung giai cấp cũng như các học thuyết chính trị đương thời còn có nhiều ưu, khuyết điểm xen tạp.

Đức Phật ngồi thiền định dưới cây Bồ đề trong không gian yên tĩnh, được bao quanh bởi ánh sáng thiêng liêngĐức Phật ngồi thiền định dưới cây Bồ đề trong không gian yên tĩnh, được bao quanh bởi ánh sáng thiêng liêng

Ở phương Tây, triết gia Hy Lạp cổ đại Socrates cũng đã đưa ra học thuyết “đạo đức”, triết học của ông hướng đến sự công chính và để cao phẩm hạnh. Tuy nhiên, triết học của ông bị giới chúc cầm quyền thành bang bức hại, thậm chí, ông đã phải chịu án tử hình bằng li rượu độc, và thậm chí khi được bạn bè ngõ lời cứu giúp vượt ngục, ông đã từ chối để vẫn toàn danh dự của mình.

Có thể thấy, nhiều tư tưởng triết học đã được sản sinh ra nhưng điểm hạn chế là điều khó tránh khỏi, và ít nhiều chịu sự chi phối của quyền lực chính trị. Phật pháp đã không hướng đến đời sống chính trị ngay từ lúc đầu. Mặc dù, Phật sinh thời vẫn có sự tiếp đón vua chúa, quý tộc nhưng Ngài chỉ dạy Đạo cho họ, nghĩa là hướng giới chính trị vào Đạo chư không phục vụ chính trị như Khổng Tử, Hàn Phi. Vì lẽ đó tư tưởng bình đẳng của Phật giáo đón nhận nhiều thiện cảm từ xã hội. Đó là điểm khác biệt nổi bật.

Giá Trị Tư Tưởng Bình Đẳng Mà Đức Phật Và Giáo Pháp Của Ngài Mang Lại

Con người là một sinh vật có ngôn ngữ và có khả năng truyền tải ngôn ngữ bằng hình thái giao tiếp. Chính vì vậy, con người nhận diễn được nhiều sự sai khác trong nhân loại với nhiều chủng tộc, ngôn ngữ và hình thái chính trị – kinh tế – xã hội riêng.

Phật giáo ghi nhận chúng sanh có thể khác nhau về chủng loại do sai khác về nghiệp báo. Song không thể vì vậy mà chúng sanh bị phân tầng cao thường hay hạ liệt. Ngay ở trong đời sống con người, thế giới nhân loại là sự hiện diễn của nhiều chủng tộc người, nhưng ở đó điểm chung nhất của các chủng tộc đó là sự chung nhất về cấu trúc, về các thân phần; vì thế không có sự khác biệt về cấu trúc sinh học giữa người da đen hay da trắng. Từ đó trong Phật giáo không chủ trương sự cao thường hay hạ liệt của một chúng sanh bằng nguồn gốc xuất thân; và từ đó bác bỏ các luận thuyết xuất xứ nhân thân hấp hôi và vị kỳ của học thuyết mà giai cấp Bà-la-môn chủ trương.

Như vậy, khởi nguyên con người không có sai khác về giai cấp hay xuất thân, nhưng vì tham ái, con người dần hình thành nên các nhóm lợi ích và lập thành những tổ chức có những quyền lợi riêng, hình thái tư hữu xuất hiện rồi đến hình thái chiếm hữu; từ đó, con người đã tạo ra sự khác biệt. Điều này được đề cập rất rõ trong giáo lý “Nghiệp” của Phật giáo, “Này Thanh niên, các loại hữu tình lý là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyền thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loại hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu”. Như vậy, theo Phật giáo thì “Nghiệp” chi phối tạo ra hoàn cảnh mỗi chúng sanh chứ không phải giai tầng xã hội quy định.

Đặc biệt, bình đẳng trong Phật giáo không có nghĩa là bình đẳng một cách cao bằng, mà mang giá trị nhân văn hiện thực: bình đẳng về cơ hội cho mỗi người. Phật giáo hướng đến bình đẳng dựa trên bình đẳng về giá trị của nghiệp đã tạo, nghĩa là “nghiệp nhân gì thì nghiệp quả sẽ tương ứng như thế ấy”. Kinh văn đã chỉ rõ sự bình đẳng về nghiệp như sau, “sát sanh, tín nhận, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đã thường, tâm không tự bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đắt như vậy, thành tạo nhầy như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dứu, ác thú, địa ngục, địa ngục”. Đó là hệ quả cho những chúng sanh tạo ác nghiệp. Nhưng nếu chúng sanh từ bỏ sát sanh, nuôi dưỡng lòng từ, vun trồng thiện nghiệp thì sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi lành. Đức Phật chưa bao giờ tán thành việc định danh bất biến về thân phận của một ai bất kỳ, hơn ai hết Ngài thấy rằng chúng sanh có sai khác chẳng qua là vì các yếu tố của nghiệp, của đặc thù xã hội – chính trị mà con người hình thành và trải qua. Ngài không bao giờ chủ trương bất bình đẳng chủng tộc. Và Ngài cũng chỉ rõ con đường mà con người tái sanh vào thế gian này, tất cả chỉ bằng một con đường không khác biệt, chẳng có một chủng tộc nào có một cuộc tái sanh khác biệt với phần nhân loại còn lại, và đặc tính thiện – ác của mỗi người không phụ thuộc vào chủng tộc hay xuất thân của họ.

Trong kinh Trung A Hàm, Phật đã bác bỏ con đường sinh hữu thuần tịnh của chủng tộc Bà-la-môn, điều mà họ vẫn thường tự đắc bằng tuyên bố, “Này Bà-tư-tra, như vậy, các Phạm chí cũng y theo pháp thế gian sanh ra từ sản đạo, thế nhưng họ lại nói là lão, vu bằng Phạm thiên mà nói như thế này, Phạm chí chúng ta là con Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, hóa sanh từ Phạm thiên”.

Như vậy, có thể thấy, giai cấp Bà-la-môn thời đó đã dùng đức tin thần thánh thần linh để sáng tạo nên bốn giai cấp mà tính bất bình đẳng đã trở thành độc đoán và phân nhân văn. Vì lẽ đó dưới ngôn thuyết của Phật và Tăng Đoàn của Ngài, Phật giáo đã góp tiếng nói công bình cho xã hội đầy tính nhân bản và nhân quyền.

Ý Nghĩa Của Bình Đẳng Trong Xây Dựng Một Xã Hội Cân Bằng

Tóm lại, bình đẳng không chỉ là một học thuyết triết học xã hội đơn thuần về mặt luận lý; mà nó còn là sự khao khát của những con người tiến bộ trong xã hội. Từ xưa con người đấu tranh hay hòa hợp với nhau đều phụ thuộc yếu tố bình đẳng. Nếu xã hội thường tôn bình đẳng theo giá trị thì xã hội sẽ ổn định, nếu tính bình đẳng không được tôn trọng thì xã hội sẽ bất ổn. Vì vậy, trong suốt thời gian dài trở thụ thế giáo hóa, kinh điển ghi lại lời Phật dạy đã lưu giữ rất nhiều bài kinh nói về bình đẳng quyền lợi giai cấp, nhân phẩm và bình đẳng trong cả việc tu hành.

Nhóm Phật tử đa chủng tộc ngồi thiền cùng nhau trong không gian yên bình của chùa chiềnNhóm Phật tử đa chủng tộc ngồi thiền cùng nhau trong không gian yên bình của chùa chiền

Từ đó, có thể nhận định, học thuyết bình đẳng đóng vai trò quyết định chủ đạo trong việc hình thành và ổn định một hình thái xã hội hay một hình thái tôn giáo. Đó cũng là một học thuyết tiến bộ được triển khai rõ nét qua hệ thống giáo pháp của Đức Phật – được Ngài tuyên thuyết sau khi đã giác ngộ viên mãn.

Sự công nhân với tinh thần bình đẳng phản ánh một trách nhiệm xã hội lớn lao. Khi chúng ta thấu hiểu rằng tất cả con người đều có khả năng tu tập, đều có cơ hội giải thoát khổ đau, một ý thức bình đẳng sâu sắc sẽ hình thành trong tâm. Điều này không chỉ giúp chúng ta tôn trọng nhân phẩm của mỗi người, mà còn khuyến khích chúng ta hành động công bình, từ bi để xây dựng một xã hội bình đẳng, hòa hợp.

Related posts

Hai Bài Thần Chú Linh Thiêng Của Tây Tạng

Administrator

Nhìn Lại Tiến Trình Tu Chứng Bốn Bề, Hướng Thượng Trong Đêm Phật Thành Đạo

Administrator

Kinh Phạm Vàng: Tuệ Giác Của Đức Phật Đối Với 62 Luận Chấp Ngoài Đạo

Administrator