Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Giáo Lý Nghiệp Qua Lăng Kính Phật Giáo

Khổ đau và hạnh phúc luôn là hai nỗi trăm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thụ này là do nghiệp quyết định. Giáo lý nghiệp không phải là do đức Phật sáng tạo ra mà đã có từ trước khi Phật giáo xuất hiện. Rất nhiều chủ trương khác nhau được đưa ra bởi các đạo sư ngoài đạo tự nhận là bậc toàn tri, toàn kiến. Trong đó, đạo Jain (Kỳ Na giáo) là một ví dụ điển hình. Như vậy, lập thuyết về nghiệp của Jain như thế nào? Sự thẩm định của đức Phật về chủ thuyết ấy ra sao? Bài viết hy vọng sẽ góp một phần nào làm sáng tỏ hơn về giáo lý nghiệp đến độc giả qua lăng kính Phật giáo.

Chủ trương nghiệp của Jain thể hiện trong sự tu hành khắc nghiệtChủ trương nghiệp của Jain thể hiện trong sự tu hành khắc nghiệt

Chủ Trương Về Nghiệp Của Đạo Jain

Kinh Devadaha là bài kinh số 101 thuộc Trung Bộ Kinh (gồm 152 bài kinh). Đây là bài kinh được đức Phật giảng cho các thầy tỳ kheo tại thị trấn Devadaha. Nội dung bài pháp thuật lại cuộc thoại giữa Ngài với ngoài đạo Nigantha về giáo lý nghiệp. Đạo Jain đã chủ trương về nghiệp như thế nào? Theo bài kinh Devadaha có ba điểm cần chú ý về chủ trương nghiệp mà Jain đưa ra.

Quan Điểm Thứ Nhất Về Nghiệp

Thứ nhất, họ cho rằng mỗi cảm thụ khổ, lạc, không khổ không lạc đều do nghiệp nhân quá khứ. Như vậy, khi nghiệp quá khứ được diệt tận và không gây tạo các nghiệp mới thì nghiệp được đoạn diệt không diễn tiến đến tương lai. Do nghiệp diệt, khổ cũng được dứt. Từ đó, cảm thụ cũng không còn và mỗi khổ đau đều sẽ tiêu trụ. Như vậy, ở điểm thứ nhất này chúng ta thấy được hai vấn đề mà Jain nêu ra. Một là phàm trong cuộc đời này, những cảm thụ khổ, vui, và vô kỳ mà con người nhận lãnh không phải do sự tạo ra từ một đẳng thần linh nào mà tất cả những thứ ấy đều do nghiệp quá khứ mà con người đã gây tạo. Hai là muốn đoạn diệt khổ đau thì phải thiêu chảy nghiệp quá khứ, đồng thời không gây tạo nghiệp mới ở hiện tại để đến một lúc nào đó nghiệp cũ hết thì khổ đau không còn kéo dài đến đời vị lai.

Phương Pháp Diệt Tận Nghiệp Theo Jain

Thứ hai, phương pháp để diệt tận nghiệp. Vì Nigantha cho rằng chính thân này tạo ra các bất thiện pháp ở tiền kiếp cho nên họ chủ trương diệt nghiệp bằng hình thức khổ hạnh ép xác như: đi một chân giữa trời, lấy cây đánh vào thân, lửa thổ không mặc gì cả,… Lý thuyết này do Mahavira tuyên thuyết. Vì ông tự xưng mà mình là bậc có tri kiến toàn diện nên tín đồ tin nhận và thực hành một cách tinh cần.

Năm Tùy Thuyết Về Cảm Thụ

Thứ ba, các Ni-kiễn-tử đưa ra mười tùy thuyết về nghiệp. Một là do nghiệp quá khứ nên lãnh thụ những cảm giác vui, khổ. Hai là tất cả cảm thụ được tạo ra từ một đẳng tạo hóa. Ba là các thứ do điều kiện mà sanh. Bốn là các cảm thụ ở hiện tại do sinh loại sinh. Năm là chính sự tinh tấn ở hiện tại mà các cảm thụ được sinh khởi. Năm thuyết sau là phủ định lại năm tùy thuyết đầu. Phật giáo không chủ trương như vậy. Đạo Phật chủ trương giải thoát mỗi sự trói buộc, không chịu nô lệ và vào ai, tự mà tự và tự mà giải thoát bản thân. Bởi lẽ, đức Phật có mặt nơi gian này để chỉ ra nguyên nhân của khổ đau mà con người phải gánh chịu và con đường đưa đến khổ nã tận, chứ Ngài không đưa ra những giáo lý mang tính cực đoan để trói buộc chúng sanh.

Trong kinh Nhất Dạ Hiện Giáo, Thế Tôn dạy các đệ tử:

“Quá khứ không truy tìm

Tương lai không được vọng

Quá khứ đã đoạn tận

Tương lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây” [1].

Với tuệ quán sáng suốt, Đạo Phật nhìn cuộc đời đúng với bản chất như nó đang là. Vậy Thế Tôn đã đặt ra vấn đề như thế nào để chỉ ra cái sai trong quan điểm của Jain và khiến họ khuất phục?

Đức Phật Phê Bình Chủ Trương Về Nghiệp Của Jain

Đức Phật khi nghe các ngoài đạo Nigantha có chủ trương về nghiệp như vậy, Ngài đã đến đối thoại và chỉ ra sự sai lầm trong chủ thuyết mà họ đưa ra. Trước hết, các Nigantha có tri kiến rằng mỗi cảm giác mà con người lãnh thụ đều do nghiệp quá khứ. Như vậy, chủ thuyết trên của Jain là một thuyết về tiền định. Phật giáo không chủ trương như vậy. Đạo Phật chủ trương giải thoát mỗi sự trói buộc, không chịu nô lệ và vào ai, tự mà tự và tự mà giải thoát bản thân. Bởi lẽ, đức Phật có mặt nơi gian này là để chỉ ra nguyên nhân của khổ đau mà con người phải gánh chịu và con đường đưa đến khổ nã tận, chứ Ngài không đưa ra những giáo lý mang tính cực đoan để trói buộc chúng sanh.

Sau đó, Thế Tôn đưa ra một ví dụ về một người bị trúng tên. Nếu khéo chữa trị thì nỗi đau đó do vết thương gây ra sẽ dẫn đến tử vong. Người bị trúng tên là hình ảnh ẩn dụ cho những người thể lãnh quả xấu do nghiệp quá khứ, mũi tên chỉ cho tham – sân – si. Nếu không tìm giải pháp để đoạn trừ ba độc thì chắc chắn sẽ mãi bị trầm luân trong sinh tử. Ngược lại, cũng đồng thời bị trúng tên nhưng những người ấy được y sĩ chữa trị qua các bước: Lấy dao cắt rộng vết thương, dùng vật dụng để do tìm mũi tên, rút tên ra khỏi thân và hơ chóre bị thương bằng than đỏ, đắp thuốc. Những công đoạn trên đều gây ra sự đau đớn thỏng khổ đối với vị ấy. Nhưng chính nhờ quá trình điều trị này mà vết thương được lành, mạng sống được cứu. Đây là trường hợp khổ đưa đến an vui. Qua đây, có hai thứ khổ mà con người cần phải ý thức được đó là khổ đưa đến sanh tử luân hồi và khổ đưa đến giải thoát.

Trong kinh Nhất Dạ Hiện Giáo, Thế Tôn dạy các đệ tử bài kệ về hiện tạiTrong kinh Nhất Dạ Hiện Giáo, Thế Tôn dạy các đệ tử bài kệ về hiện tại

Từ ví dụ trên, Như Lai bác bỏ chủ thuyết của Nigantha vì nó chỉ thiên lệch về một bên và không mang lại lợi ích gì như trường hợp trúng tên nhưng không chịu chữa mà lo đi tìm loại tên đó là gì? Do ai bắn? Nguyên nhân bị trúng tên? Những hoài nghi này đều thuộc quá khứ. Mặc khác, họ chủ trương tất cả những gì con người cảm thụ đều do nghiệp quá khứ nhưng trường hợp người trúng tên kia trải qua sự điều trị của lương y thì vị ấy khỏe mạnh ngay trong đời này chứ đâu phải đợi đến kiếp sau. Cho nên, các nghiệp ở hiện tại cũng quyết định cảm thụ ở hiện tại, không hoàn toàn như quan điểm của Jain.

Khi bị đức Phật phê bình, các Nigantha thừa với Ngài rằng: Nigantha Nataputta tự xưng là bậc A-la-hán chính đẳng giác, có tri kiến toàn diện. Ông dạy các đệ tử: “Này các Nigantha, nếu xưa kia các ông có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh thỏng khổ này” [2]. Các đệ tử nghe thế hoan hỷ tin nhận thực hành. Như Lai hỏi tiếp các Nigantha về năm pháp (tín, hỷ, tùy vấn, thẩm định lý do, kham nhận chấp thụ tài kiến) mà ngay trong đời này có hai quả báo nhưng không ai trả lời được. Ở đây, nhắc lời trình bày của các Nigantha thì họ chỉ nghe lời dạy của giáo chủ mình và áp dụng tu tập chứ không hiểu rõ. Đức Phật dạy trong kinh Tăng Chi về những điều không nên tin: “Chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đã đánh giá hết những dự kiến; chớ có tin vì phù hợp với đề định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình” [3].

Phật dạy không nên tin theo một chủ trương hay chỉ vì nghe người ta nói rồi tin nhận, thậm chí ngay cả vị thầy của mình cũng đừng tin quá với. Bởi vì chủ trương của Đạo Phật là thực nghiệm qua quá trình tự tu tập, tự chứng ngộ chứ không dựa trên một ai hay một pháp học mà không có sự chứng nghiệm thật thụ. Ví như người đi tìm kho báu nhưng chỉ xem bản đồ mà không chịu lên đường tìm cầu của báu thì không bao giờ đến và lấy được kho tàng hoặc giả có bản đồ, có đi tìm nhưng bản đồ đó là giả thì chỉ nhọc công phí sức. Cũng vậy, khi vợi tin vào một luận thuyết nào đó mà không có sự thẩm sát bằng tuệ giác thì dễ dàng đi sai đường. Chỉ khi nào tự thân mình tuệ tri được đây là thiện pháp đưa đến giải thoát, kia là ác pháp dẫn tới khổ đau thì hành giả mới bắt đầu tinh tấn thực hành để điều thiện được phát triển và loại bỏ các bất thiện không cho nó có cơ hội sinh khởi.

Sau đó, Phật lại hỏi các Nigantha có phải khi họ tinh tấn thực hành khổ hạnh thì lãnh thụ cảm giác đau đớn, thỏng khổ và ngược lại khi tự bỏ sự tu tập ấy thì các cảm thụ khổ kia không xuất hiện nữa đúng không? Họ đồng ý với Phật về điều này. Một lần nữa Phật chỉ trích sự tinh tấn mê muội không mang lại ý nghĩa gì cho sự giải thoát hay tiêu diệt nghiệp mà họ đã chủ trương. Vì lẽ, mục đích hành trì lời dạy mà giáo chủ của họ đưa ra là để đốt chảy nghiệp quá khứ, dẫn đến các khổ không còn hiện hữu nhưng cũng tinh cần bao nhiêu thì cũng khổ đau bấy nhiêu và khi không thực hành pháp tu đó thì lại không khổ. Như vậy, việc khổ hay lạc ở trường hợp này đâu liên quan gì đến nghiệp quá khứ mà hoàn toàn ở trong đời sống hiện tại.

Ngài tuyên bố: "Về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bản ước, Ta bản ước đệ nhất"Ngài tuyên bố: "Về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bản ước, Ta bản ước đệ nhất"

Sự Tinh Tấn Mang Lại Lợi Ích Lớn, Kết Quả Lớn

Vậy sự tinh tấn như thế nào mới đem lại kết quả rất tốt? Đó là tinh tấn không để cho tự ngã chưa bị nhiễm phục, bị khổ đau nhiễm phục và không tự bỏ lạc thụ hợp pháp nhưng cũng không để bị lạc chi phối. Do tinh cần tu tập xả bỏ những nguyên nhân đưa đến sâu, bi, khổ, ưu, nảo hình giả đoạn diệt được tham ái. Chính sự xả ly không còn luyến tiếc tham ái ấy, nên người tu đạt được sự giải thoát, sự vô nhiễm. Đây chính là khổ diệt thành đế (một trong bốn chân lý chắc thật của Phật giáo) [4]. Đức Phật đưa ra ví dụ về sự ái luyến của một người nam dành cho một nữ nhân. Khi thấy cô gái ấy vui cười với người con trai khác thì vị ấy thỏng khổ, sâu nảo. Nhưng khi anh ta biết được nguyên nhân cái khổ này không phải do ai khác mang lại mà chính tâm say đắm cô gái của mình tạo nên. Từ đó, vị ấy cố gắng xả bỏ tâm ái luyến này đi. Đến khi tâm ái nhiễm ấy không còn thì dù rằng nữ nhân kia có nói chuyện, cười đùa với ai chăng nữa cũng không là làm cho người nam sanh lòng phiền nào. Đó là ví dụ về trường hợp từ cái khổ để thực hành sự tinh tấn và đạt được kết quả lớn.

Cho nên, không thể máy định khổ luôn luôn là cảm thụ tiêu cực, phải loại bỏ nó và lạc là cảm thụ tích cực cần duy trì, nắm giữ. Bởi vì, có những lúc ta cần nhớ vào khổ để cơi trói cho chính mình cũng giống như người thợ làm cung tên dùng lửa để uốn nắn chúng, nhưng khi cái cung đủ độ cong hay tên được tháng rồi thì không cần dùng đến lửa để hơ nó nữa. Hay khi ngồi thiền thì vô vấn cảm thụ đau đớn nơi thân diễn ra nhưng nếu chiến thắng được cái cảm giác ấy thì thành quả đầu tiên đạt được đó là sự hỷ lạc nơi tâm và sau cùng là viên mãn tuệ giác vô thường. Vậy với trường hợp nào thì lạc thụ cần nên bỏ? Đó chính là cái lạc do thỏa mãn sự khát ái, sự vui thích do nhạc dục đem lại – là nguyên nhân dẫn đến khổ đau trong sinh tử. Thậm chí, các lạc do chứng được ở các tầng thiền định cũng không nên tham chấp vì nó chưa thật rất tốt, chỉ khi hoàn toàn đại ngộ như Đức Phật thì đó mới là đích đến cuối cùng.

Tinh Tấn Trong Đạo Phật

Thật vậy, thực hành theo giáo lý của Phật giáo chính là tu tập trung đạo, nghĩa là từ bỏ hai cực đoan hướng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác. Phật dạy các đệ tử của Ngài: Đối với cảm thụ lạc (khổ) nào mà làm cho thiện pháp tăng trưởng, ác pháp được tiêu trừ thì cần duy trì nhưng đến khi nó không còn cần thiết giúp cho sự tu tập giải thoát thì phải xả bỏ nó. Tuy nhiên Đạo Phật vẫn chủ trương lạc đem lại lợi ích cho sự tu tập hơn so với khổ, nhớ lạc mà định dễ sinh, nhớ định mà trí tuệ phát triển, còn khổ chỉ là nhân duyên phụ trợ quá trình tu để đoạn trừ dục vọng. Như vậy, sự tinh cần hạnh khổ của Jain là tạ tinh tấn còn tinh tấn mà Phật dạy là chính tinh tấn. Chính tinh tấn là một chi phần trong Bát chính đạo – con đường đưa đến sự giải thoát, chứng ngộ Niết bàn. Nó còn là một chi phần trong Thất giác chi và một phần trong Ngũ căn – Ngũ lực. Hơn thế, đây còn là nội dung của Tư chính cần trong Ba mươi bảy pháp trị đạo: Tinh cần khiến cho các thiện pháp chưa sinh được phát sinh; các thiện pháp đã sinh thì làm cho chúng phát triển đi đến sự viên mãn; tinh tấn đoạn trừ các ác pháp đã sinh khởi; các ác pháp chưa sinh thì tinh cần ngăn chặn không cho chúng sinh khởi. Tinh tấn tinh cần như vậy là m nền tảng cho sự viên mãn minh (tuệ) và giải thoát.

Giáo Lý Về Nghiệp Trong Phật Giáo

Cuối cùng, Phật kết luận mười tùy thuyết của Jain đáng bị chỉ trích thì mười thuyết hợp pháp của Như Lai được tán thán. Nghiệp theo Phật giáo là một định luật đương nhiên và nó không có tính cố định. Cho nên, con người có thể chuyển hóa nơi khổ, niệm đau thành an lạc giải thoát hay phàm phu có thể trở thành bậc thánh nhờ sự tinh tấn tu tập giới, định và tuệ. Đạo Phật không chấp nhận có một đẳng tạo hóa ban phước, giáng hạ cho con người, mà những gì con người gánh chịu đó là kết quả tất nhiên của những nghiệp nhân mà họ đã tạo nên. Đạo Phật phê bình những ai có tài kiến về thuyết định mệnh. Trong Kinh Tăng Chi Phật dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kế thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyền thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” [5]. Khi sinh ra có người đẹp kể xấu, kể giàu người nghèo,… Đó cũng là sự chi phối bởi nghiệp cũ nhưng yếu tố quan trọng quyết định sự thay đổi kiếp sống của con người là nghiệp mới. Chính chủ trương nghiệp mới mới là nhân bản, là giải thoát theo tinh thần của Phật giáo. Ở đó, con người chính là nhân tự quyền định hạnh phúc hay khổ đau cho cuộc đời của mình chứ không ai có thể đặt định hay thay thế được:

“Tự tính, không tự tính tự mình

Không ai thanh tịnh ai” [6].

Tóm Lại

Qua bài khảo luận “Giáo lý nghiệp qua lăng kính Devadaha Sutta” người viết hy vọng thông qua sự phê bình tà thuyết tiền định của ngoài đạo Nigantha dưới góc nhìn tuệ giác của Phật giáo sẽ đem lại cái nhìn đúng đắn cho người đọc về giáo lý nghiệp. Từ đó, con người tự tin thực hiện ước mơ giải thoát cuộc đời mình khỏi mỗi trói buộc của sâu, bi, khổ, ưu, nảo. Niềm tin vững chắc ấy là sức mạnh giúp hành giả làm sống dậy tinh thần lạc quan, yêu đời, có trách nhiệm với bản thân và hơn hết là tạo nhiều nhân duyên thiện lành đem đến kết quả lớn, lợi ích lớn cho mình, cho người.

NhƯ Thiện

Chú Thích

[1] Kinh Trung Bộ 2, Kinh Nhất Dạ Hiện Giáo số 131, tr.519.

[2] Kinh Trung Bộ 2, Kinh Devadaha số 101, tr.275.

[3] Kinh Tăng Chi Bộ (Tập I), VII. Phẩm Lớn, tr.221.

[4] Kinh Trung Bộ II, Kinh Phân Biệt Về Sự Thật số 141, tr.591.

[5] Kinh Tăng Chi II, tr.77.

[6] Kinh Pháp Cú, phẩm Tự Ngã số 165.

Related posts

Tịnh Độ Đích Thực: Khi Tâm Thanh Tịnh, Tịnh Độ Khắp Nơi

Administrator

An Cư Kiết Hạ: Thời Tu Tập Quý Báu Của Tăng Già

Administrator

Bí Ẩn Khu Mộ Địa Của 200.000 Tăng Sĩ Tại Koya-san

Administrator