Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Khái Quát Văn Học Phật Giáo Việt Nam Thời Lê Nguyễn

Mở Đầu

Việt Nam lịch sử là bản ghi chép phong phú về sự giao thoa giữa các tôn giáo và triết học. Trong những chặng đường dài của dân tộc, Phật giáo đã để lại những tác phẩm văn học thâm sâu, là tâm huyết của những vị tăng sĩ tài ba. Thời Lê Nguyễn (1428-1945) nổi lên như một thời kỳ vàng của văn học Phật giáo Việt Nam, nơi niềm tin tâm linh hòa lẫn với sáng tác văn chương, tạo nên nền tảng vững chắc cho truyền thống Phật học cho hậu thế.

I. Bối Cảnh Lịch Sử Xã Hội Thời Lê Nguyễn

Định Nghĩa Thời Kỳ

Thời Lê Nguyễn là khái niệm chỉ thời kỳ lịch sử Việt Nam từ triều đại quân chủ Lê sơ (1428-1527) đến hết triều đại quân chủ thuộc nhà Nguyễn (1802-1945), trải suốt 517 năm. Trước đây, các nhà nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam thường gọi thời kỳ này từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, ngắn hơn gần nửa thế kỷ so với khái niệm thời Lê Nguyễn.

Sự Phát Triển Chính Trị

Thời kỳ này hết sức phức tạp với nhiều biến động. Đầu thời kỳ này, Đại Việt vừa giành độc lập khỏi ánh đô hộ của phương Bắc, bắt tay vào việc xây dựng nước mới với lãnh thổ mở rộng từ Chiêm Thành đến Cả Lũy. Sự phát triển vượt bậc trong những năm đầu thời Lê sơ nhanh chóng trở nên rối loạn về chính trị từ đầu thế kỷ XVI, khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê sơ vào năm 1527.

Sau đó, nhà Lê trung hưng tiếp quản (1533-1789) nhưng sự phân quyền lực chính trị giữa các tập đoàn phong kiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn ngày càng rối ren. Trịnh Kiếm nắm giữ binh quyền, trong khi các tướng lĩnh của Nguyễn Hồng bị hạm hại. Nguyễn Hồng nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên sư của triều Mạc, Đắc nhân tài thời kỳ đó) phán rằng “Hoành sơn nhất đại, vân đại dung thân” (một dãi núi ngang có thể dung thân muôn đời được). Nguyễn Hồng hiểu ý và nhờ chỉ lạc Ngộc Bảo xin phép Trịnh Kiếm đem dân chúng vào trấn thủ Thuận Hóa.

Năm Mậu Ngọ (1558), mùa đông, Nguyễn Hồng lúc nào 34 tuổi, được lệnh của vua Lê-chúa Trịnh vào trấn thủ đất Thuận Hóa, dựng dinh tại xã Ấn Tứ (ngày nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Từ đó, Nguyễn Hồng bắt tay xây dựng thực lực chuẩn bị cho chiến lược lâu dài của dòng họ Nguyễn. Sau đó, Nguyễn Hồng nhận thấy vùng đất Quảng Trị chưa phải là vị thế địa linh nhân kiệt, chưa phải là nơi Thiên ý định nên tiếp tục dạo vào vùng đất xứ Huế ngày nay để lập nghiệp.

Sự cùng cấp của Nguyễn Hồng trên vùng đất Quảng Trị nắm giữ quyền bình và kho quốc gia, mở ra trang lịch sử mới về chính sách, lãnh thổ, địa giới cũng như về văn hóa, văn học. Nhìn lại vấn đề này, sự kiện chúa Nguyễn Hồng vào Nam là vấn đề giới sử gia đang còn tranh luận.

Dưới ánh sáng của những nỗ lực tổng hợp, sự cùng cấp của Nguyễn Hồng tạo tiền đề cho việc hình thành hai chính quyền đối địch Đông Trong và Đông Ngoài từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII.

Lê Thành Tông - nhân vật văn hóa tiêu biểu thời Lê sơ qua tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi TậpLê Thành Tông – nhân vật văn hóa tiêu biểu thời Lê sơ qua tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Ở Đông Ngoài, dưới quyền chính trị của nhà Trịnh, Phật giáo cũng bắt đầu khởi sắc. Nói chung, cả Đông Trong và Đông Ngoài đều ủng hộ Phật giáo, mặc dù vẫn sử dụng Nho học làm nền tảng trị quốc. Nhà Tây Sơn nổi lên trong vòng hai thập kỷ (1778-1802), về võ công là nổi bật và văn trị cũng có những nét đặc sắc nhưng chưa mang lại ảnh hưởng đáng kể.

Về nhà Nguyễn (1802-1945), sử liệu ghi nhận các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đều có quan tâm phục hướng đạo Phật qua việc tu bổ, xây mới chùa thắp; năm 1830, vua Minh Mạng triệu cao tăng các tỉnh vào Kinh, nhờ Bộ Lễ xem xét rồi ban cấp giới đạo và độ điếp. Kể từ đời vua Tự Đức cho đến hết thế kỷ XIX, việc đối phó với sự xâm lăng của người Pháp về mọi mặt cùng với sự xâm nhập tích cực của tôn giáo mới là Thiên Chúa giáo đã thu hút mọi sinh lực của người Việt.

II. Tình Hình Phật Giáo Thời Lê Nguyễn

Sự Phục Hưng Dần Dần

Triều đại nhà Lê sơ được xây dựng trên cơ sở khôi phục nền độc lập dân tộc sau một cuộc kháng chiến gian khổ để đánh đuổi quân Minh, thế lực ngoài xâm đã cai trị Đại Việt suốt 20 năm với chủ tâm xóa bỏ nền văn hóa truyền thống được xây dựng dưới thời Lý-Trần. Có thể nói văn hóa Đại Việt đã chịu đựng một sự đột gãy, tổn thương nghiêm trọng trước những biện pháp đồng hóa của quân Minh.

Thêm vào đó, cũng có thể thấy nhà Lê sơ buộc phải xóa những dấu tích còn sót lại của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần vì áp lực chính trị từ phương Bắc. Trong dòng chảy văn hóa Việt, sự độc tôn Nho học mà nhà Lê sơ chủ trương có thể được coi là một bước ngoặt lịch sử. Đây cũng là do ý thức hệ quân chủ chuyên chế áp đặt vào văn hóa Việt trong thời nội thuộc nhà Minh đã để lại dấu ấn sâu sắc, khiến các vua nhà Lê sơ vì mặc cảm muốn sánh vai cùng Hoa Hạ, đã tự nguyện chấp nhận mô hình từ tưởng Tổng Nho, điều mà các vua nhà Trần đã từng kiên quyết bác bỏ.

Dưới triều Lê sơ, Tổng Nho được xem trọng hơn Phật giáo. Đối với giới trí thức, Nho giáo lại là bậc thang đưa họ tiếp cận giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, được phổ biến trên nền tảng cải học cũ nghiệp. Do đó, Nho giáo không thể giải quyết được những khao khát tâm linh. Vì vậy, nhiều nhà Nho trong khi hâm hút tạo sự nghiệp thì bị bác Phật giáo nhưng đạo đầu lại trở về quy y cửa Phật.

Nhà Mạc bị coi là “nguỵ triều” nên tài liệu lịch sử để lại không bao nhiêu nhưng gần đây cũng có một vài nghiên cứu về Phật giáo thông qua các văn bia triều Mạc. Điều này cho thấy trong phạm vi ảnh hưởng của nhà Mạc, số lượng chùa chiền được tân tạo là khá nhiều.

Viết Nam Phật giáo Sử luận của Nguyễn Lang đã nhận định chung về Phật giáo thời Lê-Mạc như sau: “đương về phương diện đóng vai trò lãnh đạo văn hóa trí thức và chính trị, đạo Phật trong thời Lê Mạc lâm vào trạng thái suy đồi nhưng đương về phương diện tín ngưỡng dân gian, đạo Phật trong thời đại ấy vẫn tiếp tục phát triển”.

Cũng có thể thấy Phật giáo khởi sắc trở lại ở phương vị có thể tác động đến giai cấp cầm quyền là kể từ khi Nguyễn Hồng vào trấn thủ đất Thuận Hóa.

III. Văn Học Phật Giáo Thời Lê-Nguyễn

Định Nghĩa và Phạm Vi

Văn học có thể được hiểu là một hình thức biểu hiện tâm tứ tình cảm bằng ngôn ngữ viết hay ngôn ngữ nói, theo một cách có phương pháp, chứa đựng một giá trị nghệ thuật hay trí tuệ. Hiểu như vậy, văn học mang tính thời đại. Hơn nữa, văn học còn đại diện cho tư tưởng của chủ thể sáng tạo.

Văn học Phật giáo có thể được tâm hiểu theo nghĩa hẹp là văn học nhằm chuyển tải giáo lý đạo Phật, triết học Phật giáo hoặc những tác phẩm phục vụ cho các hoạt động tu tập, nghi lễ của Phật giáo, những bài thi kệ, những tập ngữ lục của các Thiền sư.

Những Tác Giả Tiêu Biểu

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715)

Thiền sư Minh Châu Hương Hải tục gọi là Tổ Cầu, quê ở làng Bình Yên thường, huyện Lạc Dương, phủ Thăng Hoa, ngày nay thuộc huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Sinh năm 1628, lúc 18 tuổi Minh Châu thi đỗ Hương tiến, được bộ làm văn chức trong phủ Chúa Nguyễn Phúc Lan. Năm 25 tuổi (1652), qua nhiều lần tham vấn về Thiền học, Minh Châu tìm đến học với vị Thiền sư Viên Cảnh Lục Hỏi, một vị du tăng người Trung Hoa đang hành đạo ở Đông Trong.

Ba năm sau (1655), Minh Châu từ quan, xuất gia với Thiền sư Viên Cảnh Lục Hỏi và được đặt cho pháp danh là Huyền Cơ Thiền Giác, pháp tự là Minh Châu Hương Hải. Thế lực ngoài xâm chiếm của nhà Mạc bị coi là “nguỵ triều” nên Minh Châu chuyển về tu học với vị Thiền sư khác tên là Đại Thẩm Viên Khoan.

Công hạnh và uy đức của Thiền sư Minh Châu Hương Hải đã lan rộng khắp mọi nơi, Chúa Nguyễn Phúc Tần (tức chúa Hiền) đã mời thiền sư về Thuận Hóa, cho xây Đường Thiền Tính Viện trên núi Qui Kính (nay là núi Linh Thái thuộc xã Vĩnh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) với mục đích hoằng pháp và hộ quốc an dân.

Thiền sư Minh Châu Hương Hải chủ giải các kinh, dịch ra và sáng tác bằng tiếng Nôm hơn ba mươi tác phẩm. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa, Giải Di Đà Kinh, Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ và Lý sự Dung Thông. Đây là những tác phẩm được dịch từ kinh Phật bằng Hán tử nhưng được tác giả diễn Nôm dưới dạng dịch ý, không phải dịch đúng nguyên văn.

Hương Hải Thiền Sư ngữ lục lần đầu xuất hiện năm 1747 nói về hành trang của Minh Châu do đồ chứng của ông viết lại, trong có chép tổng cộng 59 bài thơ và 14 đoạn văn xuôi chữ Hán. Mặc dù vậy, Minh Châu Hương Hải là người đã khai phóng hệ thống dịch thuật cho nền văn học thời kỳ này.

Thiền sư Chân Nguyên (1646-1726)

Thế danh Nguyễn Nghiêm, tự là Định Lân, quê ở làng Tiên Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông đã theo học cử nghiệp nhưng khi 19 tuổi, nhân đọc hành trang của Thiền sư Huyền Quang, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm, ông tìm đến chùa Hoa Yên nơi Yên Tử xuất gia với Chân Trụ Tuệ Nguyệt.

Lúc 25 tuổi, Minh Châu Hương Hải đã trở thành ngưỡng tưởng của ông. Tham học thiền sư Minh Lương, đệ tử của thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết, Chân Nguyên được đặt pháp hiệu. Ông đốt hai ngón tay khi nguyện giữ Bồ tát giới. Được truyền thừa y bát Trúc Lâm, ông trụ trì chùa Long Đông và Quỳnh Lâm, những trung tâm lớn của phái Trúc Lâm.

Năm 1722, đã 76 tuổi, ông được phong Tăng Thống. Ông tịch năm 1726, thọ 80 tuổi.

Chân Nguyên để lại 11 tác phẩm bằng cả chữ Nôm lẫn chữ Hán. Những tác phẩm đó gồm Thiền tông bản hạ hành, Thiền tích phú, Ngữ Đạo nhân duyên, Tính Độ yếu nghĩa và nhiều tác phẩm khác. Qua những tác phẩm này, Chân Nguyên thể hiện cách tiếp thu và biến chuyển Phật giáo để phù hợp với xã hội Việt Nam, trong đó có việc đưa giới tá dâm đối với sa-di và tu sĩ vào hạng tám giới dành cho người thế mục đích Nhân dân Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo như thế nào một cách cụ thể.

Thiền sư Liễu Quán (1667-1742)

Người từ làng Bạc Mã (hoặc Bạch Mã), huyện Đông Xuân, tỉnh Phú Yên. Thiền sư xuất thân nghèo khó, sáu tuổi mở cơi máy, mười hai tuổi đi chùa Hội Tôn với cha để gặp thiền sư Tế Viên xin ở lại chùa để học đạo, được cha ưng thuận. Ở chùa Hội Tôn, ông được học chữ Hán, luật sa di và những kinh điển dễ học.

Năm 1690, ông ra núi Hàm Long ở Thuận Hóa xin ở lại tu học; được một năm, nghe tin cha bệnh ông xin về chăm sóc. Bốn năm sau, cha mất, ông lại lên đường học đạo. Năm 1695 tại Thuận Hóa, ông thọ Sa di; năm 1697, ông thọ Tỳ kheo Bồ tát giới. Năm 1702 ông gặp thiền sư Tự Dung tại chùa Ấn Tôn nơi Long Sơn của Thuận Hóa, nhận công án rồi về Phú Yên tự tham khảo.

Năm 1708 ông trở ra Long Sơn trình công phu và được Thiền sư Tự Dung ấn chứng. Bấy giờ Liễu Quán 46 tuổi, đã có nhiều đạo trưng để hành đạo: chùa Thiền Tông, chùa Viên Thông và chùa Viên Giác ở Thuận Hóa; các chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tính ở Phú Yên. Chùa Viên Thông nằm dưới chân núi Ngũ Bình thường được Chúa Nguyễn Phúc Khoát đến viếng.

Liễu Quán để lại hành trang về giác ngộ và sáng tác những tác phẩm như ká kệ thí tích. Về giá trị của Liễu Quán, ông đã “hóa thành thiền phái Lâm Tế, làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Đông Trong”.

Thiền sư Toàn Nhất Quang Đại (1757–1834)

Cán cứ vào Toàn tập Toàn Nhất Quang Đại (TTQĐ), thế danh khó rõ, quê Thuận Hóa, có căn bản Nho học, tường là tư lượng trong quân đội Tây Sơn. Vào năm 1786, chứng kiến sự chia rẽ của lãnh đạo phong trào, ông bỏ Tây Sơn và xuất gia với thiền sư Pháp Chuyên Luật Truyền tại Phú Yên, lúc nào ông đã 30 tuổi.

Ông đã nói pháp của dòng Lâm Tế, thuộc dòng thiền Lâm Tế Chúc Thắng. Vào năm 1786, trịnh Ấn tiên Động lực, trong lúc xem kinh tạng, theo hướng dẫn của Toàn Nhất, tự tham kháo được nhiều công án thiền và soạn tập “Sa di oai nghi tăng chỉ giáo ngủy từ thiệu thiên” để dạy chúng.

Toàn Nhất Quang Đại xuất hiện trong một thời đại mang tính bản lề của lịch sử. Mặc dù tác phẩm của ông không bàn nhiều đến tư tưởng, qua tác phẩm cùa ông, ta vẫn thấy tinh thần tư tưởng của ông. Đó là tinh thần dung hợp, tinh thần thừa nhận tất cả các quan điểm của các học thuyết, các tôn giáo, các tông phái, bất luận là chúng có thực như thế nào.

Viên tịch năm 1834, thọ 78 tuổi, Toàn Nhất để lại 20 trước tác gồm 14 tác phẩm cả truyện lẫn phú viết bằng chữ Nôm, một bản tiểu luận và 3 bài bắt dùng cho việc in lại các bản kinh Phật được viết bằng chữ Hán. Toàn Nhất Quang Đại là đại diện của một thế hệ tầm nhìn rộng, tinh tế và sâu sắc.

Thiền sư Phúc Điển (1784-1863)

Thế danh khó rõ, thân phụ họ Vũ, thân mẫu họ Lê, quê thôn Trường Thịnh, xã Bạch Sam, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa (nay thuộc xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Mười hai tuổi, xuất gia học đạo với Thiền sư Hải Tiệm tại chùa Đại Bi. Ba năm sau, thấy mất, ông đến thọ giới Sa di với Hòa thượng Hải Quỳnh ở chùa Phúc Thung.

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), bấy giờ đã 51 tuổi, ông vào Huế dự kỳ sát hạch Tăng sĩ, được triều đình ban giới đạo và độ điếp, được tăng sắc hiệu Phúc Điển Hòa thượng. Ở Huế, ông chỉ tích cực tìm hiểu và thu thập được nhiều tài liệu về tình hình Phật giáo đương thời.

Phúc Điển để lại tác phẩm Thiền uyển truyền Đăng lục, trong đó chính Phúc Điển đã ghi lại 34 bộ kinh sách Phật giáo do ông dịch quốc âm. Tác phẩm Đạo giáo nguyên lưu của Phúc Điển là “bộ sách nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam có niên đại sớm nhất mà chúng ta biết được”. Sách này được xuất bản năm 1845 và đã được sử dụng làm sách giáo khoa trong các trường Phật học đương thời.

Phúc Điển viên tịch năm Tự Đức thứ 16 (1863), thọ 80 tuổi. Tư tưởng của ông là tinh thần dung hợp, tinh thần thừa nhận tất cả các quan điểm của các học thuyết, các tôn giáo, các tông phái. Đây là tinh thần không phân biệt Thiền, Tính, Mật, không phân biệt Đông Tây tu hành, chọn cái phù hợp và bỏ cái không cần thiết, không bác bỏ.

Kết Luận

Văn học Phật giáo thời Lê Nguyễn là kết tinh của sự tu tập, trí tuệ và tâm tình sâu sắc của các vị thiền sư hôm nay. Từ Minh Châu Hương Hải đến Phúc Điển, mỗi vị đều có những đóng góp riêng cho nền tảng Phật học Việt Nam. Những tác phẩm này không chỉ là tài liệu lịch sử quý báu mà còn là những hướng dẫn tu tập có giá trị vượt thời gian.

Qua những công trình này, đệ tử Phật có thể hiểu được con đường tu tập, những khó khăn và thử thách, cũng như những thành tựu của các bậc thánh nhân. Văn học Phật giáo thời Lê Nguyễn là cầu nối giữa truyền thống Phật học cổ xưa và nhu cầu hiểu biết của thế hệ hôm nay, góp phần lan tỏa chánh pháp đến tất cả mọi người quan tâm đến Phật học.

Để tiếp tục nghiên cứu và phát triển nền tảng Phật học này, chúng ta cần tôn trọng những giá trị truyền thống đã để lại, đồng thời sáng tạo những cách tiếp cận mới phù hợp với thế hệ ngày nay. Chỉ như vậy, Phật giáo mới có thể tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đem lại lợi ích cho cộng đồng Phật tử cũng như toàn xã hội.

Related posts

Đức Phật: Sứ mệnh độ vong viên mãn

Administrator

Ba Đồng Cùng Dưỡng Chư Tăng, 91 Kiếp Hưởng Phước

Administrator

Niệm Phật Là Phương Pháp Đơn Giản Và Mạnh Mẽ Để Chữa Trị Bệnh Tật

Administrator