Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Làm Thế Nào Để Nhận Biết Phật Tánh? Hành Trình Giác Ngộ Và Nhận Thức

Phật tánh nơi ta luôn tiến chớp không phải thời, tích lũy chớp không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần cũng tươi đẹp, cũng thuận tính, nó đưa làn mỗi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thành thiện. Đây không phải một khái niệm trừu tượng mà là bản chất sống động của sự tồn tại, luôn hiện diện trong mỗi khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta.

Kiến Tánh Thành Phật Có Thật Không?

Kiến là sự biết một cách tự nhiên không cố gắng phân tích suy luận thoát cái Ngã xen vào nên gọi là Kiến. Còn có tư duy có phân tích có suy luận thì cố gắng đào sâu vào để hiểu thấu thì gọi là Khán Tâm để đối lại kiến tánh. Kiến tánh được đưa ra từ thời Lục Tổ Huệ Năng do Thần Hội đề tử của người viết quyển kinh Pháp bảo đàn kinh. Thần Hội giải thích đường lối tu tập của Thầy mình là Huệ Năng là Vô niệm nên không cần kinh luận bắt lập văn tự, để tự nhiên thiện vô niệm thì Phật tánh sẽ lộ ra, nên gọi là Kiến tánh là kiến Phật tánh tự nhiên như gương đi đã sáng sẵn rồi chỉ cần lau bụi vô minh là hiện ra.

Đường hướng đó gọi là Đốn ngộ. Còn đường hướng của Thần Tú miền bắc là tiềm tu là giới định tuệ tu từ từ mỗi đạt tánh giác. Cả hai lối tu này đều mang đến kết quả là thành Phật. Nhưng có ai biết được rằng Kiến tánh thấy Phật tánh rồi đến thành Phật là trải qua hàng triệu kiếp tu tập. Không có việc kiến tánh rồi thành Phật như một kết quả của một việc là m một hành động. Phật đây là quả vị Phật. Cho nên sửa lại Kiến tánh rồi thành nhân tử Phật.

Tương tự ta niệm A di Đà Phật là tạo ra một nhân tử về được cõi tịnh độ. Còn việc về được hay không là vẫn còn chưa rõ ràng. Tu Phật không bao giờ là tu tắt. Đó là chân lý. Nguyên thủy báo chỉ có một vị trí Phật là Thích ca Mâu Ni còn lại là A la hán vì 3 điều:

1. Không có người thầy nào dạy mà đắc đạo.

2. Đạt được tánh giác tuyệt đối diệt trừ tận cùng gốc các lâu hoặc của thân phần con người.

3. Là đạt được 3 cái minh là sáng suốt biết quá khứ bao nhiêu ngàn kiếp của mình bằng niệm đi ngược thời gian biết được hết tất cả muôn kiếp trước.

Đạo Phật hướng dẫn con đường tu tập để nhận biết Phật tánh qua thiền địnhĐạo Phật hướng dẫn con đường tu tập để nhận biết Phật tánh qua thiền định

Minh thứ nhất là Đức Phật nhìn biết được kiếp trước của chính mình bao nhiêu kiếp trăm ngàn kiếp. Minh thứ hai là biết hết kiếp trước của người, chúng sanh đối mặt. Cái minh thứ hai này được diễn tả đầy đủ chi tiết trong kinh Đại bát niết bàn lục luận Ananda hỏi Phật về các vị tỳ kheo trong tăng đoàn. Họ tu tập sẽ đạt kết quả ra sao trong kiếp này kiếp sau hay không còn kiếp tiếp theo nữa. Theo Nguyên thủy thì có 2 trạng thái tu tập là đang đi tu và đã tới nơi rồi. Đang đi thì đắc hai quả là Dự lưu và Nhất lai, còn đến nơi rồi thì đắc 2 quả là Bất lai và A la hán. Và minh thứ ba là biết cách diệt trừ đau khổ giải thoát luân hồi là Tứ diều Đế Vô ngã tưởng.

Phật Tánh Ở Trong Ta Luôn Tiến Chớp

Tất cả chúng sanh đều tu tập theo người, như vậy là tu đó có Thầy dạy là Phật pháp của người thì không thể đắc thành Phật quả được. Đại thừa thì cho rằng Phật nhiều vô số kể như cát sông Hằng vì ai cũng có Phật tánh thì tu thành Phật. Chỉ cần kiến tánh biết được Tánh Phật thì thành Phật. Lý thuyết này chưa có ai chứng nhận và giải được cho đến ngày nay. Họ đều trả lời: người tu thành Phật có bao giờ nói là mình chứng được thành Phật bao giờ? Tại sao?

Vì khi tu đến giác ngộ thì vô chứng vô đắc, lý luận là người sinh diệt luân hồi là con bệnh, tu theo Phật là dùng toa thuốc chữa bệnh. Khi bệnh hết rồi thì toa thuốc cũng bỏ. Vậy có gì gọi là chứng được khi người bệnh hết bệnh thoát luân hồi. Lý thuyết thứ hai là chúng sanh có lâu hoặc đầy đủ, tu là làm cạn dần lâu hoặc là làm mất dần đi. Đến khi hết còn lâu hoặc thì là mất đi chứ có chứng được gì đâu? Có được cái gì đâu? Chỉ là trở về cái nguyên thủy trong sáng tinh anh ban đầu, vì bao nhiêu kiếp lâu hoặc do bần này ô nhiễm nây rửa sạch trong sáng mà thôi.

Tu là làm mất đi làm cạn dần đi lâu hoặc, chứ không đạt cái gì hết thì làm sao gọi là chứng được có được? Cuối cùng giác ngộ rồi mới khởi tu tục đốn ngộ rồi tiềm tu. Và tiềm tu này có thể nhiều đường đi như nguyên thủy, tịnh độ, thiền, hoa nghiêm, mật tông và nhiều nhiều đi nữa. Kết lại là thấy Phật tánh rồi mới khởi tu chứ chưa thành Phật được.

Những Tác Động Liên Quan Với Phật

Phật đắc đạo truyền bá pháp tu thì gọi là chủ thể là thế tôn là Phật. Từ đó có rất nhiều những tác động liên quan với Phật bao gồm:

1. Phật tánh: Phật tánh đó là tánh giác ngộ, tánh Phật, bốn tánh là nhi, mầm lương thiện trong mỗi loại chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai tánh, đồi nghĩa với chúng sanh tánh.

2. Phật tánh giới: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh ấy vốn không nhiễm trước, nó rời khỏi mỗi tội lỗi. Nếu nhà tu hành biết tùy thuận theo nó, tu giữ lấy thân khẩu ý thanh tịnh, như vậy gọi là Phật tánh giới.

3. Phật tâm: Tâm đại từ đại bi, tâm giác ngộ, dứt các mê hoặc, thương tất cả chúng sanh, quyết cứu thoát cho chúng sanh khỏi các khổ nào và độ cho họ thành Phật. Ngược lại, Chúng sanh tâm thì tâm tánh mê tội, tham dục, đầy phiền nào, ích kỷ, chi biết lo cho mình mà thôi.

4. Phật tâm ấn: Đó là nói đến sự truyền thụ Phật tâm. Tất cả chúng sanh đều có Phật tâm, Phật tánh nhưng không tự biết mình sẵn có tánh ấy do đó khi thực hành tu tập mà không phát đại nguyện để tu thành Phật. Bậc tôn sư xét rằng trình độ và chỉ hướng của đệ tử mình có thể thể lãnh đại đạo bên khai thị, chỉ hướng cho đệ tử pháp tu khai mở tâm Phật của chính đệ tử đó để họ tiến tu đến khi thành Phật. Đó gọi là dự tâm ấn tâm cũng gọi là Phật tâm ấn.

Thiền định giúp tu hành nhận ra Phật tánh tiềm ẩn trong chúng sinhThiền định giúp tu hành nhận ra Phật tánh tiềm ẩn trong chúng sinh

5. Phật thuyết: Từ kim khẩu của Đức Phật diễn giảng, tùy theo căn cơ mà độ chúng sinh. Các kinh do Phật thuyết thường khởi đầu bằng câu nói của ngài A Nan: Tôi nghe như vậy (như thị ngã vân). Phật không viết Kinh, ngài chỉ thuyết pháp. Những bài thuyết pháp của Ngài, sau khi Phật nhập Niết Bàn, chỉ đệ tử của ngài hợp nhau lại mà chép thành Kinh.

6. Phật thừa: Bouddhayana (sanscrit): cỗ xe của Phật, tức là giáo pháp đưa người đến quả vị Như Lai. Cũng gọi là Nhất Thừa, Nhất Phật Thừa. Thinh Văn Thừa vì như cỗ xe dê. Duyên Giác Thừa vì với cỗ xe nai. Bồ Tát Thừa vì với cỗ xe bò. Phật Thừa vì với cỗ xe bò trắng lớn.

7. 10 Quả Vị Phật Thừa:

  • Thâm thâm nan tri quảng minh trí huệ địa
  • Thanh tịnh tự phần oai nghiêm bất từ nghĩa minh đức địa
  • Thiêu minh nhất trăng thiết tướng hải tạng địa
  • Tinh diệu kim quang công chỉ thần thông trí đức địa
  • Đại luân oai tạng minh đức địa
  • Hộ không nội thanh tịnh vô cầu viêm quang khai tưởng địa
  • Quảng thẳng pháp giới tạng minh giới địa
  • Phổ thông trí tạng năng tịnh vô cầu biên vô ngại trí thông địa
  • Vô biên đức trang nghiêm hội hướng năng chiếu minh địa
  • Tứ Lỗ Xá Na trí hải tạng địa

8. Phật Tri kiến: Sự biết và sự thấy của Phật. Phật có đủ Tam Trí:

  • Nhất Thiết Trí của hai hàng Thinh Văn và Duyên Giác
  • Đạo Chứng Trí của hàng Bồ Tát
  • Nhất Thiết Chứng Trí của Như Lai

Cho nên Như Lai biết tất cả. Như Lai lại có đủ ngũ nhãn:

  • Nhục Nhãn
  • Thiên Nhãn
  • Huệ Nhãn
  • Pháp Nhãn
  • Phật Nhãn

Cho nên ngài thấy tất cả.

9. Phật trí: Trí tuệ của Phật cũng gọi là Phật trí tuệ, Phật huệ, Như Lai huệ. Theo chữ Pán có hai nghĩa là:

  • A Nuttara Samyassambôdhi (Anouttara Samyassamboddhi)
  • Tất Bát Nhã hay Bát Nhã (prajnâ)

Tôi Tu Và Nhận Ra Phật Tánh

Xin tham khảo bài viết “Tôi Đi Tìm Giác Ngộ – Phần Tiến Trình Giác Ngộ Cùng Tác Giả”. Phật tánh bị che mờ bởi nghiệp duyên và cái Ngã của mình. Tất cả đều che lấp Phật tánh nên không nhận ra. Vậy tìm Phật tánh là tự ta tìm thấy của thân ta mà có Phật tánh. Thiền quán vô thường duyên khởi vô ngã và khổ, lâu hoặc thì Phật tánh lộ dạng. Hiểu về giác ngộ là hiểu được cái hình tưởng mà chưa biết bản thể của nó. Giác ngộ về Tánh Phật. Tức là hiểu được các định luật của vũ trụ của chúng sinh như câu chuyện từ đầu cái kén và con nhộng.

Tu Đại thừa là lìa bỏ tưởng trạng lìa bỏ khái niệm ngôn từ để lộ tính chân thật là Phật tánh. Tánh giác là cái vô sanh, chân như bất động, như như không thay đổi. Cái biết thứ hai là vô sanh tánh giác là vậy. Tức Tâm tức Phật là Phật tánh. Chỉ cần lặng đông thanh tịnh lại thì Phật tánh lộ diễn ra.

Phật tánh hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, bao trùm tất cả chúng sinhPhật tánh hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, bao trùm tất cả chúng sinh

Tính của Phật là tính sáng suốt trong sáng không bị ô nhiễm là tính giác mênh mông rộng khắp nơi bao trùm khắp nơi. Phật tánh chỉ có một mà thôi. Phật tánh của anh và của tôi chỉ là một, chúng ta khác nhau vì Nghiệp và duyên khác nhau. Quán chiếu nhận ra Phật tánh đồng nghĩa Ngộ Đạo. Ngộ Đạo là Như Thị, là hiện tiền không quá khứ không tương lai và không chấp trước chấp thật chấp giả chấp ngã chấp pháp. Không có Tôi và có người. Không có trụ và cũng không có bám buông xả. Hãy tưởng tượng Phật tánh bao trùm vũ trụ này chỉ có một, con người con vật muôn loại, tất cả chỉ khác nhau do duyên và nghiệp. Nó giống như một qui luật vô tưởng chi phối hết vũ trụ này. Nó giống như một từ trường của trái đất chi phối hết trái đất này.

Chúng ta thường có động vào tánh giác là Phật tánh mà không nghĩ đến sự bao trùm của nó trong vũ trụ. Mỗi vật đều vận hành như thể là chúng biết giác sự sinh tồn của chúng. Chúng vận hành mười sắc na và cố định để biểu hiện ra hình tưởng thay đổi trong khi Phật tánh do vô tưởng và cố định tĩnh lặng như như không sanh diệt. Phật tánh là bản thể còn vận vật là hiện tượng vô thường.

Tôi tu và nhận ra Phật tánh bằng thiền định. Đã định rồi mới quán chiếu, quán chiếu nhiều vấn đề như nhiều công án vậy. Nhân đầu tiên là vô thường, tại sao vô thường và vô thường là chân lý bất biến. Kế tiếp qua vô ngã, tại sao vô ngã, không có cái tôi thì ai chịu trách nhiệm cho nghiệp lực, ai chứng được đi qua bờ bên kia. Quán đến vô sanh pháp nhân không sanh không diệt, quán đến năng số song vong. Quán đến tánh Không của Bát nhã tâm kinh. Quán đến Không đây là không tự tánh, không bám trụ, ngã cũng không mà pháp cũng không. Quán đến duy thức vạn pháp duy thức là huyễn là ảo là không chấp thật. Rồi quán chiếu đến Phàn vạn vạn tự tánh. Mang cái thấy cái nghe vào trong tâm mình quán chiếu về tự tánh của mình.

Kế tiếp quán đến phi không gian phi thời gian vô số lượng. Quán đến hiện tiền như thị của các pháp trả pháp về lại cho pháp không có cái tôi xen vào. Quán chiếu đến nhất niệm vô minh để đi đến trí tuệ bát nhã biến thức thành trí. Sự vận hành của con người chúng ta từ các điều quán chiếu vừa kể đi đến Phật tánh.

Con đường tu tập để nhận ra Phật tánh đầy ý nghĩa và giải phóngCon đường tu tập để nhận ra Phật tánh đầy ý nghĩa và giải phóng

Tánh của Phật là tánh sáng suốt trong sáng không bị ô nhiễm là tánh giác mênh mông rộng khắp nơi bao trùm khắp nơi. Phật tánh chỉ có một mà thôi. Phật tánh của anh và của tôi chỉ là một, chúng ta khác nhau vì Nghiệp và duyên khác nhau mà thôi. Quán chiếu nhận ra Phật tánh đồng nghĩa Ngộ Đạo. Ngộ Đạo là Như Thị, là hiện tiền không quá khứ không tương lai và không chấp trước chấp thật chấp giả chấp ngã chấp pháp. Không có Tôi và có người. Không có trụ và cũng không có bám buông xả.

Hãy tưởng tượng Phật tánh bao trùm vũ trụ này chỉ có một, con người con vật muôn loại, tất cả chỉ khác nhau do duyên và nghiệp. Nó giống như một qui luật vô tưởng chi phối hết vũ trụ này. Nó giống như một từ trường của trái đất chi phối hết trái đất này. Chúng ta thường có động vào tánh giác là Phật tánh mà không nghĩ đến sự bao trùm của nó trong vũ trụ. Mỗi vật đều vận hành như thể là chúng biết giác sự sinh tồn của chúng. Chúng vận hành mười sắc na và cố định để biểu hiện ra hình tưởng thay đổi trong khi Phật tánh do vô tưởng và cố định tĩnh lặng như như không sanh diệt. Phật tánh là bản thể còn vận vật là hiện tượng vô thường.

Kết Luận: Hành Trình Nhận Biết Phật Tánh

Kể từ khi Đạo sanh báo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và Nhất xiên đế cũng có Phật tánh nên tu tập sẽ thành Phật. Kinh Đại bát niết bàn giảng sâu rộng về Phật tánh là tánh Giác thì Đại thừa Đạo hội phải tin như Đại thừa khởi tin của Mã sinh giảng kinh. Phật tánh được nêu ra đến ngày nay bản cái sâu rộng nhưng chưa có ai nói rằng mình đã chứng ngộ được Phật tánh và tu thành Phật. Kinh Bát niết bàn này của Đại thừa gần giống như kinh Pháp hoa, khác nhiều với nguyên thủy. Kinh Bát niết bàn kết thúc lúc Phật sắp nhập diệt, Ngài nói các tỳ kheo: Hỡi các tỳ kheo, hãy chính niệm tỉnh giác, trì giới, định tâm, nhiếp ý, ai tinh tấn trong Pháp và Luật này, sẽ lìa vòng sinh tử, chấm dứt khổ đau.

Điều quan trọng là nhận ra rằng Phật tánh không phải là một phần thưởng hay một quá vị mà chúng ta phải chinh phục. Nó là bản chất tự nhiên của chúng ta, chỉ cần lau chùi sạch những lớp bụi ô nhiễm của nghiệp và vô minh là Phật tánh tự hiển lộ. Mỗi hành động tu tập, mỗi lần thiền định, mỗi khoảnh khắc suy tư về giáo pháp đều là bước đi trên con đường gần gũi với Phật tánh của chính mình. Tu học Phật giáo không phải để đạt được cái gì mà là để trở về với cái nguyên thủy tràn đầy sáng suốt và từ bi của mình.

Phật tánh của anh và của tôi chỉ là một, chúng ta khác nhau vì Nghiệp và duyên khác nhau mà thôi. Khi thiền định sâu sắc, khi tâm ý thanh tịnh, Phật tánh sẽ lộ diễn ra như một ánh sáng chiếu xuyên qua bóng tối của vô minh. Đó là lúc chúng ta thực sự nhận biết được Phật tánh – không phải thông qua lý thuyết hay tưởng tượng, mà thông qua trực tiếp kinh nghiệm tu tập.

Tham khảo:

[1] Tính Kham Nhẫn, Tác giả: Thiền sư Suzuki, Tham khảo: Thư viện Hoa sen

[2][3] Phật Tánh, Tác giả: T/S Lâm Như Tạng, Tham khảo: Thư viện Hoa sen

Related posts

Bồ Tát Siddhartha Đắc Ta Vừa Sinh Ra Đã Biết Nói – Điềm Tướng Thiêng Liêng

Administrator

Nhân Duyên Kỳ Diệu: Khi Nhất Tâm Niệm Phật Mở Ra Cửa Giải Thoát

Administrator

Leo Tolstoy và Đạo Phật

Administrator