Khi tâm thanh tĩnh, thân không cần ngồi lâu như cục đất. Khi tâm động, thân phải bình tĩnh giữa lo lắng, sợ hãi để kiện tính cái bản chất của khổ đau. Đây là một trong những lý thuyết sâu sắc của Phật giáo, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa tâm và thân trong hành trình tu tập.
Lý Ngõ Không – Nền Tảng Của Thiền Định
Khái niệm “ngõ không” không phải là việc không làm gì cả, mà là một trạng thái tâm thức đặc biệt. Khi tâm ở trong ngõ không, nó không bị ràng buộc bởi những ý niệm hay suy tư. Đây là trạng thái tâm không tư vết, không phân biệt.
Chúng ta có cần cháp ngõ không không? Thực tế, mặc dù nhiều người nói về lý ngõ không, nhưng rất ít người có thể thực sự hiểu rõ và áp dụng nó trong đời sống hàng ngày. Để chứng ngộ được lý như Tathágata dạy, không đủ chỉ có kiến thức lý thuyết.
Người học Phật thường mắc phải sai lầm khi cố gắng “cháp ngõ không” như cách cháp nhân. Tuy nhiên, muốn thực sự đạt được chứng ngộ về lý Như Thái, chúng ta cần phải vượt qua những ác tứ pháp môn của Phật giáo. Trong đó, thiền “Chỉ Định Quán” là một trong những phương tiện phát ngôn cơ bản, dễ tiếp cận, giúp những người có căn cơ để bước vào môn quán. Thiền định để an tâm là một trong những phương pháp trực tiếp, đơn giản và hiệu quả nhất của Phật giáo mà Đức Phật đã chỉ định hàng ngày dù đã đạt giác ngộ.
Thiền định là phương tiện tu tập cơ bản của người Phật tử trên đường tu học
Người An Định học có quan điểm rất gần gũi với triết lý “như vậy thôi” – C’est la vie! Cuộc đời… cứ như vậy! Theo quan niệm này, dù tu hay không, dù ngõ hay mê đều tùy thuộc vào căn cơ và duyên nghiệp của mỗi cá nhân. Những phương pháp của Phật giáo chỉ là những phương tiện để giúp hành giả đạt cứu cánh.
Chẳng hạn, thiền “Chỉ Định Quán” là một trong những phương pháp của Phật giáo. Đây cũng là một trong những pháp môn cơ bản ban đầu, để giúp những người có căn cơ gì vào môn quán. Thiền có thể là một trong những phương pháp trực tiếp, đơn giản và hiệu quả nhất của Phật giáo mà Đức Phật thiền định hàng ngày dù đã đạt giác ngộ. Nó tương tự như lợi thuyết tham thiền của Ấn Độ Giáo từ hàng ngàn năm về trước.
Tuổi Tác Và Con Đường Tu Tập
Tuổi thích hợp tập thiền hay Yoga tối thiểu là tuổi lên ba. Những trẻ em ở độ tuổi này hoặc bắt đầu học bất cứ điều gì cũng dễ dàng hấp thụ nhanh chóng, tự nhiên, và có thể có khả năng để trở nên thiền sĩ.
Tuổi trẻ và trung niên thì quá nhiều trách nhiệm, bận rộn, chi phối vì phải ganh đua, tranh đoạt với đời. Nhất là còn có cao ngạo nên chưa thể “chính chuyên” để tu học hoặc được hành thực hành.
Tuổi già như cái xác chết biệt đi, tu để mà tu vì tham “sống” vĩnh hằng trên cơi “thiên đường,” hay tịu diêu nơi cơi “niết bàn cực lạc” thay vì sợ chết bị xuống địa ngục. Mà không chết thì làm sao lên thiên đường ở với trời hay tịu diêu cực lạc theo chân Phật được?
Tu tập thiền định cần sự kiên trì, chuyên tâm và lòng nhân ái
Lúc Tổ Huệ Nẵng không khuyến khích người cháp không như cuộc đã giới này qua giới khác. Tổ Báo rằng: “Thứ nhất là không nên cháp không, nếu để tâm không ngôi tĩnh tựa đó là cháp vô kỳ không.”
Ý của Ngài là nên tu tập để làng hết những vọng tưởng tục trí Bát Nhã thành thang hiện tiền.
Người Huyền Giác dạy: “Tĩnh tĩnh lặng lặng phải!”
Hiểu Rõ Những Hiện Tượng Trong Thiền Định
Tham thiền để nghe được âm thanh, thấy được hào quang, màu sắc, mơ thiên nhân, xuất hồn… cũng là ảo tưởng. Những cảnh giới đó chưa phải là cứu cảnh, không nên sơ srust vào những thần thông tâm bộ đó để bị tâm hoạ nhân ma.
Lúc Tổ cũng không chú trọng nhiều đến lý luận tường qua kinh điển và những hình thức nghi lễ tôn giáo mà chỉ khuyến nên tự nhiên quán tự tại trong tính lặng hậu tâm thanh tĩnh của Vô Niệm. Từ Vô Niệm sẽ dẫn đến Vô Trụ và Vô Tưởng.
Tổ Huệ Nẵng chỉ rõ rằng: “Thiền lấy Vô Niệm là m tông, Vô Tưởng là m thể, Vô Trụ là m gốc. Vô Tưởng là ở nơi tưởng mà lửa tưởng. Vô Niệm là ở nơi niệm mà chẳng niệm. Vô Trụ là bản tính của con người đối với tất cả sự vật, thiện ác, tốt xấu, kể thù, người thân trên thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi đặ, đều cho là không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoài cảnh… Không ở nơi cảnh mà sinh tạ kiến, nhưng ở niệm phải sinh ở Tự tính. Niệm của Tự tính là Vô niệm, tức là đều cho là không. Vô niệm thì khác với niệm tuyệt, tức là không nghĩ gì cả chỉ nhìn vào hư không.”
Niên hiệu Thần Long năm đầu (705 TL) vào ngày Rằm tháng Giêng vua Trung Tông và Tắc Thiên ban chỉ sai quan Nội Thị Tiết Giám thỉnh Lục Tổ và Trần Tuế vào kinh.
Cả hai Ngài, uy vũ bất năng khuất, không màng danh vọng, phủ quyết vinh hoa, nên trải thành chỉ, viên cơ tự chối. Vì nhân duyên mà gặp gỡ, quan Nội Thị Tiết Giám hỏi và được Lục Tổ dạy:
“Đạo do tâm mà ngộ, hạ tại ngôi sao?
Kinh nói: Nếu nói Như Lai hoặc ngôi hoặc nằm, ấy là người hành đạo tà.
Vì cớ sao?
Không tự đâu lại cũng không có chỗ đi, không sinh không diệt, ấy là Như Lai thanh tĩnh thiền, các pháp rộng lặng ấy là Như Lai thanh tĩnh tọa, cứu kính không chứng, hạ lại có ngôi ư?”
Thiền Hiện Đại – Áp Dụng Trong Cuộc Sống
Nhập thế thiền, xuất thế thiền! Thiền hiện đại là thiền của nhân sinh trên thế giới, không phân biệt tôn giáo.
Khi động cũng thiền, khi tĩnh cũng thiền, đi động, nằm ngôi, ăn uống, học hành, nghe nhạc, xem TV, online, làm việc, tập thể thao, di chuyển cũng thiền.
Thậm chí đang làm vệ sinh thường thức, đang đi dụcng cũng thiền.
Thay vì không có thì giờ để thiền thì phải không có thì giờ để không thiền. Thay vì không có lúc nào là không lo ra thì phải không có lúc nào để lo lắng.
Mưa sương giữa trận tiến giáo giết giáp cứu quốc cũng thiền. Nằm mơ cũng mơ… tưởng thiền!
Thiền cho đến lúc mình không biết mình đang thiền. Thiền mà cớ tưởng chưa thiền, chưa an tâm mà đã kiến tạ tính.
Tuy nhiên, như thói thường, đa số tự hóa trong lòng chỉ khi tĩnh tâm, lòng an ổn, không lo lắng bần rộn rồi sẽ tập thiền, tu hành, sám hối, làm phước. Cứ khất lần như vậy thì còn lâu mới thiền định được, nói gì đến chuyện mong an được tâm.
Tốt nhất là tập thiền trong lúc học đang tới trùng trùng, tâm hơn lo sợ, lòng dạ đau khổ, và nếu mà thiền trong lúc tâm can tỳ phải lớn xốn mà đạt được an tâm trong lúc đó đó là điều rất khó khăn, và kỳ khói, có mấy ai là nơi?
Cho nên thiền “thực tế trung thực” nhất là thiền trong lúc lo sợ, đau khổ, bệnh hoạn, trong ngoài, trên dưới lớn xốn nhưng phải làm sao mà “thiền động tâm” là làm cho tâm nào lo sợ hơn, đau khổ hơn, bệnh hoạn hơn, trong ngoài, trên dưới lớn xốn nhiều hơn nữa vì đã lạy bị khổn khổ rồi thì cho nó khổn nạn luôn…
Trong lúc đó cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc hữu rồi thì hữu tắc không, không tắc cùng, cùng tắc biến… mất.
Có khác gì với ý của Bát Nhã Tâm Kinh:
Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc hữu, hữu tắc không, không tắc cùng, cùng tắc biến…
Cùng tắc thị biến, biến tắc thị thông, thông tắc thị hữu, hữu tắc thị không, không tắc thị cùng, cùng tắc thị biến.
Nói na, khi cực đại đi đến vô cực đại thì biến thành cực tiểu, và khi cực tiểu đi đến vô cực tiểu thì biến thành cực đại.
Hoa sen – biểu tượng của sự thanh tịnh trong Phật giáo
Chỉ khi thay đổi, giãn nỡ, “như như hơi thở” của vũ trụ thì mới “hạnh thông”, có vô lượng vật, có vũ trụ sắc tưởng, và có vũ trụ không sắc tưởng.
Thiền khi tâm tĩnh thì thân động chủ không cần ngôi lâu như cục đất, và khi tâm động thì thân phải bình tĩnh trong lo lắng, sợ hãi để kiện tính cái bản chất của khổ đau.
Ngay lúc đó hãy “nhằm vấn thiền” để “quán sát” tất cả những trôi nổi của những nơi quái ngại, và khổ nạn đó để thấy rồi cũng sẽ qua đi, vô thường như chúng ta thường kinh nghiệm trong cuộc đời.
Giai đoạn cuối quan trọng nhất là quán tự tại rồi thì quán tại ngoài để chứng kiến, quán ngộ, cái ngoài thân, đau khổ giai không đó.
Nếu làm được như vậy thì một ngày nào đó sẽ: Không ngộ mắt nhìn trở nên thanh tĩnh như Quán Âm Bồ Tát. Không ngộ bồng nhiên miệng cười mẽm chi như Bụt. Không ngộ tâm tĩnh từ nhiên tự bi như Bồ Tát. Không ngộ trí tuệ bồng chớc viên diều như Đại Thế Chỉ (Tara) Bồ Tát. Không ngộ hào quang bắt thần tựa sáng chói tươi từ trong ra. Không ngộ âm thanh trở nên ngân vang hùng hậu. Không ngộ bản thân tự tựa chân khí ấm áp, êm dịu, sưởi ấm chứng sinh chung quanh.
Không ngộ nhất là chứng sinh và vạn vật chung quanh bồng nhiên cũng đến với nhau, cùng cùng nhau hòa hợp (harmony), và từ “bất động căn tính” (vô lượng thể tưởng) trở nên “động nhất thể tính” (singularity, nhất như) bật ngộ như trên vậy.
Đó là lúc lửa hòa thuần thanh, tinh khí thần hợp nhất, đã đạt được vô thiền, đón là lý ngộ không, đại công cao thành mà chỉ tự ngày xưa vì “bần rộn” tu luyện thiền định nên quên truyền lại.
Cách hành văn tôi nghĩa ở trên, nửa Mỹ nửa Việt, không đúng quy tắc văn phạm, không thích hợp với tiêu chuẩn văn chương vì không có chủ đề (subject, không có cái tôi, vô ngã) nhưng thường được dùng trong văn chương triết học trên thế giới, và nhất là được tôi cố ý dùng trong những phác luận về triết lý Phật giáo để nhấn mạnh lý vô ngã, một triết lý quan trọng của Như Lai Ý, bản tăng.
Vậy thì, ai đạt vô thường chính đáng chân giác?
Vô ngã có ngộ không không?
Kết Luận: Con Đường Thiền Định Thực Hành
Lý “ngõ không” không phải là việc không làm gì, mà là một quá trình chuyển hóa tâm thức sâu sắc. Khi hiểu rõ lý này, chúng ta mới có thể thực sự bước vào con đường thiền định có hiệu quả.
Thiền định không phải là quá trình ngồi im đợi, mà là sự tu tập tích cực trong mọi hoạt động hàng ngày. Dù là lúc tâm tĩnh hay tâm động, chúng ta đều có cơ hội để tu tập và kiện chứng bản chất khổ đau của cuộc sống.
Quan trọng nhất là phải có tâm kiên định, lòng nhân ái và sự chuyên tâm trong quá trình tu tập. Khi đã vượt qua những vọng tưởng, những sợ hãi và lo lắng, chúng ta sẽ đạt được trạng thái thanh tĩnh, từ bi và giác ngộ mà những vị Tổ sư đã chỉ dạy.
Thiền định là con đường của trí tuệ, không phân biệt tôn giáo hay văn hóa. Nó thuộc về tất cả những ai có hành tâm tu tập, khao khát tìm kiếm sự an lạc và giác ngộ trong cuộc sống.