Tôn giả Hàn Sơn nói, đời người sống chẳng bao lâu, lại đi lo việc thiền cơ. Lại Ni Giới khuyên chúng ta không nên lo lắng những việc xa xôi. Ngược lại, Sơ Tổ Trúc Lâm leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động ở tại thạch thất thật để tạo cái kế lâu dài. Tục là Ngài trông xa nhìn rộng, muốn tạo kế lâu dài cho hậu thế, cho Thiền tông. Qua hai sự thị hiện khác nhau của hai báo Tổ đức, chúng ta học được gì? Ở và vào đâu, nhằm chỗ nào để thấy quỷ Ngài?
Một đối tượng tìm hiểu giáo lý Phật giáo luôn gặp phải câu hỏi: liệu hành động có phải là dấu vết của tâm chưa thông suốt? Tôn giả Hàn Sơn bảo phải buông hết các duyên, nhưng Ngài vẫn làm nhiều việc, thị hiện nhiều hành thức tính chứng sanh, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Sơ Tổ Trúc Lâm tạo kế lâu dài cho hậu thế, nhưng chỉ là sáng biết, nào có sanh tâm đón niệm gì. Hãy nói, có làm những vẫn không làm, hay ngồi yên mới không làm? Cả hai đều nhằm trên công việc để bàn luận, hiểu biết, là theo tưởng, mê tâm, làm sao thấy được quỷ Ngài?
Hang động trong núi nơi các tổ sư tu tập và sáng lập tổ đình Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam
Chư Thiền tri thức tự sáng bản tâm, luôn sống bằng tâm thể để khéo léo tùy duyên trôi trơn việc đạo, việc đời bằng diều lực được lưu xuất từ bản tâm như vậy. Thấy biết, làm nhiều, nhưng vẫn vô tưởng, bất động. Đức dụng ấy không nằm trong hiểu biết của tính thức sanh diệt thế gian. Hòa thượng Tông chủ một đời lo cho đạo pháp, cho Thiền tông Việt Nam cũng kế thừa tâm thể chư Phật, tiếp nối tâm Thiền Tổ sư như thế. Tâm huyết tiếp nối phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam cũng nhờ “như thế” mà được thành tựu mỹ mãn. Hàng con cháu về sau thừa hưởng phúc trí của Ngài, được tắm gội trong suối nguồn Trúc Lâm Yên Tử.
Tuy làm được nhiều việc lợi đạo ích đời, nhưng Ngài vẫn xem như huyền mộng, vẫn như chưa làm gì, mới nói nắm được việc lớn Phật Tâm Tông. Ngài nói:
“…Mộng tan rồi, Cười vơ mộng.
Ghi lối mộng, Nhân khách mộng.
Biết được mộng, Tịnh cơn mộng.”
Không phải ở trong mộng để hiểu biết và nói về mộng. Hòa thượng đã “Mộng tan rồi, cười vơ mộng”. Tức là hết mộng, đã tỉnh, đã sáng lại nguồn tâm mình để vào trong cảnh mộng dắt dẫn những người còn đang mộng như chúng ta. Đã tỉnh mộng mà biết mộng nên rõ suất mộng ảo, làm các việc trong mộng để giúp người còn mộng được tỉnh, nhưng vẫn vô tưởng, bất động; đây là “Như huyền tam muợi”.
Thiền sư Cứu Chỉ từng nói: “Chẳng rơi cảnh nghiệp mà phương tiện khéo léo, ở trong cái hữu vi hiện bây phá pháp hữu vi mà không phân biệt”, chính là điển đáy này. Con cháu hữu duyên, nhiều vị đã nhận ra, thấu suất và thừa đương tài sản vô giá như thế.
Sự Khác Biệt Giữa Hành Động và Tâm Thể
Như cánh nhạn ngang qua lưng trời, đã qua rồi nhưng bóng nhạn vẫn còn che mắt. Hiện nay Hòa Thượng đã nghỉ ngơi, không giảng dạy và làm Phật sư nữa, nhưng những vị hữu duyên vẫn đang thừa hưởng công đức pháp hóa của Ngài. Dù ít hay nhiều, sâu hay cạn, tất cả cũng chung một cảm khai “Không ngờ!”. Không ngờ mình được gặp Hòa Thượng, cuộc đời chuyển sang một trang sách mới, rạng ngơi. Không gặp Ngài, không biết cuộc đời của mình bây giờ trôi nơi về đâu! Không ngờ mình lại đủ phúc duyên gặp Ngài, biết được giá trị Thiền tông Việt Nam để chuyển hóa bản thân và nhiều người khác.
Cho đến dưới sự đào luyện, khai thị, kích phát của Ngài, tâm mình bùng vơ – Không ngờ! Và còn nhiều nữa. Như cơn gió vô tình thôi qua khóm trúc, gió đã qua rồi, vẫn còn đây âm vang vang rộn. Là hiện tại Hòa thượng không còn sách tấn, nhưng mỗi Thiền sinh hằng ngày đang nổ lực tiếp tục hành trình trở về cơ hưởng chính mình mà Ngài đã chỉ đường, dẫn lối. Con đường ấy không hình tưởng, nhưng mỗi ngày lại tiến bộ, mỗi tưởi. Các Phật sư, trách nặng Ngài giao phó lại, dưới sự nồi nắm và chỉ đạo của Hòa thượng Trưởng Ban Quản Trị, chỉ Tôn Đức Ban Quản Trị cùng toàn thể hải chúng Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam đang duy trì, phát huy làm cho ngày càng quang huy, xán lần.
Tâm thể thanh tịnh của người tu tập theo đạo Phật là mục tiêu cao nhất của tu học Thiền Tông
Tất cả không ra ngoài ánh sáng chói lọi tâm thiền đã được Hòa thượng Tông chủ nồi nắm, truyền trao. Chưa được khai tâm thì diều chỉ Phật Tổ vô cùng ẩn ý, bí mật. Bùng ra rồi, mới hay ra việc Phật Tổ cũng là việc chính mình hiện nay. Trong chân trời ấy, Thầy trò Mã Tổ đã lưu xuất một trường hòa hội vô cùng sinh động.
Tâm Sáng Và Con Đường Tu Tập Thực Tế
Thấy ra thì cũng nhau hợp xương. Ngược lại thì dù chân trời ấy thành thang không giới hạn, được mời vào cũng không chỗ đặt chân. Một đêm Ngài Trí Tăng, Hoài Hải và Phổ Nguyên đang hầu Mã Tổ ngâm trầng. Mã Tổ hỏi:
– Chính khi ấy thế nào? (Bây giờ, nên làm gì?).
Trí Tăng Tây Đương thưa:
– Chính nên cũng dương.
Bà Trưởng Hoài Hải thưa:
– Chính nên tu hành.
Nam Tuyên Phổ Nguyên phủi áo ra đi.
Sư bảo:
– Kinh vào Tăng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyên “riêng siêu ngoài vật”.[1]
Như vậy, ai hơn, ai kém?
Nếu cho rằng Kinh vào Tăng là thấp thì tại sao chư đại Thiền sư lại đọc Kinh, nói pháp? Nếu báo Thiền về Hải là vẫn còn dấu vết tu hành, chưa rốt ráo thì tại sao đã thành đạo, lớn tuổi, được Phật vẫn thiền tựa? Ngài Phổ Nguyên “riêng siêu ngoài vật”, cũng như Thiền sư Đức Sơn đốt Kinh Kim Cang, nhưng Thiền sư Triệu Châu, một báo kiệt xuất từng lại đọc Kinh Kim Cang. Vậy thì đọc Kinh là phải, hay đốt Kinh mới phải?
Hướng dẫn tu tập theo lời dạy của các Thiền sư vĩ đại qua các thế hệ Trúc Lâm Việt Nam
Nếu nhằm trên hiện tượng để thấy biết thì chỉ thấy biết dấu vết thị hiện bên ngoài của quỷ Ngài, thấy thế nào cũng không ổn, bởi chưa thấu tốt. Sáng lại tâm thể chính mình thì tự suất thông tâm thể ba đời chư Phật, rõ suất tất cả, vào ra tự tại. Vào Kinh, vào Thiền cũng “riêng siêu ngoài vật”. Như Tổ Pháp Loa gánh vác sơn môn, làm nhiều Phật sư, nhưng Ngài báo cũng chỉ là việc “nắm sống thỏi, nhớ lòng rửa” mà “diều huệ vô thường chiếu soi không cùng”. Siêu vượt tất cả tức không ngăn ngại, vẫn hay tự tại vào Thiền, vào Kinh.
Dương tộ Sơ Tổ Trúc Lâm ban đầu xả bỏ vương vị, tu hành đầu đó. Khi tâm tánh đã hiện sở sở (Riêng siêu ngoài vật) thì Ngài lại tự tại tùy duyên vào nhân gian dạy Thập Thiền, tùy cơ khai thị, kích phát chỗ, cho đến tính kế lâu dài, cũng đâu phải là việc gì khác bên ngoài?
Vô Tưởng Vô Động: Bản Chất Của Tâm Tu Tập
Vào tất cả, vẫn luôn vượt thoát tất cả. Huệ thoát tất cả, vẫn hay tự tại ra vào linh thông đến chủ đương, nhưng vẫn bất động, không thấy có tưởng vào ra. Một đời tu tập và làm Phật sư của Hòa thượng Tông chủ hiện nay cũng sống đương đạo lý như vậy. Hòa thượng tưng nói: “Muốn cho Phật pháp trường tồn thì phải có người tu hành sáng đạo”. Chính Ngài đã sáng cho nên mới nhận ra giá trị của điều kiện cốt lõi cần thiết, tiên quyết không thể thiếu này. Đã trăm năm qua Hòa Thượng lo cho đạo pháp, nhiệt huyết lo cho Thiền tông Việt Nam, muốn thực hiện đất đến rốt ráo viên mãn, Ngài không thể rời bản tâm sáng ngơi này mà thực hiện được. Đây là bây cái thể trên đường dụng.
Thể ấy vô tưởng, ai báo có làm! Hiện tại Ngài đã nghỉ ngơi, nhưng trông thấy liên biết, thưa thỉnh liên nghe, có duyên liên ứng hiện. Không động, lặng yên, nhưng động dụng linh thông đến chủ đương không ngăn ngại; là ẩn cái dụng trong tánh thể. Dụng đang sẵn bày, nhằm chỗ nào thấy đã nghỉ ngơi? Đã như thế rồi thì dù trăm năm, ngàn đời, cho mãi đến ngàn sau cũng đều như thế. Bởi một khi đã thể nhập, tánh này không biến đổi.
Nếu nhằm trên làm và không làm, nghỉ ngơi hay còn lo cho Phật sư, cho đến thấy Hòa thượng Tông chủ là như thế nào đó, tất cả đều nhằm trên dấu vết để bàn luận, thấy biết, chưa thể thật thấy quỷ Ngài. Hiện nay, chúng ta nhằm chỗ nào để thấy biết và niệm ơn Hòa Thượng? Trăm năm qua Ngài đã nói rõ hết rồi. Những gì là làm được, Ngài cũng đã làm cho chúng ta hết rồi. Nay đây còn lại là việc mỗi người phải tự thấy ra, không một ai khác có thể làm thay được.
Kế Thừa Pháp Mạch: Trách Nhiệm Của Thế Hệ Sau
Không động, lặng yên, tâm thể vô tưởng của người tu tập Phật giáo vẫn có khả năng ứng dụng linh hoạt với các nhu cầu của xã hội. Tâm sáng này không phân biệt giữa hành động và không hành động, vì cả hai đều là biểu hiện của tâm thể thanh tịnh. Điều quan trọng là phải khai thị được tâm thể chính mình, từ đó mới có thể tiếp nối pháp mạch của các Thiền tổ, duy trì và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam theo ý muốn của các báo Phật sư.
Con đường tu tập này không phải là sự chọn lựa giữa hành động hay thụ động, mà là sự hoàn toàn vô tưởng trong mọi hoạt động. Khi tâm được khai thị, người tu tập sẽ hiểu rằng tất cả các hành động trong đạo pháp, từ dạy dỗ cho đến xây dựng các tổ chức tôn giáo, đều là manifestation của tâm pháp mà không chứa đựng bất kỳ ý muốn hay tưởng tượng cá nhân nào. Đây là đỉnh cao của tu học Phật giáo – làm mà vô tưởng, động mà bất động.
Lễ hạ truyền pháp và kế thừa tâm pháp tại các tổ chính Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam
Hòa thượng Tông chủ đã sáng lập nền tảng, khai thị chân lý vô tưởng vô động này cho hàng con cháu. Bây giờ, trách nhiệm của thế hệ sau là phải tu tập sâu sắc để khai sáng tâm thể, rồi tùy duyên, tùy cơ trong môi trường, trong xã hội mà vận dụng pháp mạch này. Không cần phải yên ngủ hay bận rộn, chỉ cần tâm được sáng rõ, mọi việc sẽ tự được xử lý theo sự tùy duyên của pháp tính.
Như thế, Hòa thượng vẫn tiếp tục hướng dẫn, bảo vệ những con cháu hữu duyên. Dù Ngài không còn trực tiếp giảng dạy, nhưng pháp âm vẫn văng vẳng trong tâm của mỗi người đã được khai thị. Cơ duyên nào hiện tiền, Hòa thượng sẽ ứng dụng trong chốc lát. Đây chính là “Như huyền tam muợi” – một đời sống đạo vô tưởng vô động mà lại vô cùng linh động và hiệu quả.
Kết Luận: Một Đời Sống Đạo Thực Thụ
Một đời sống đạo thực thụ không được đánh giá qua những hành động nhìn thấy được hay những công trình xây dựng. Nó được đánh giá qua sự khai thị tâm thể, sự vô tưởng trong tất cả hành động, sự bất động giữa những biến động của cuộc đời. Khi con người sáng lại tâm thể chính mình, bản tính Phật của mình, thì mọi thứ sẽ được giải quyết theo cách tự nhiên nhất, mà không cần phải cô gắng hay chủ tâm.
Tôn giả Hàn Sơn buông hết các duyên, Sơ Tổ Trúc Lâm xây dựng các tổ chính – cả hai đều là những hạng hiền nhân, những bậc thánh nhân của Phật giáo. Sự khác biệt nằm ở tâm thể, không nằm ở hành động. Hòa thượng Tông chủ đã chứng tỏ điều này qua cả một đời sống tu tập và hành pháp. Mong rằng những bài học này sẽ giúp cho mỗi Phật tử Việt Nam hiểu rõ hơn về bản chất của tu học Thiền Tông, và từ đó tìm được con đường tu tập phù hợp với mình, vô tưởng vô động, mà vẫn hiệu quả trong việc truyền bá chánh pháp.
Hành trình tu tập của mỗi người là độc nhất vô nhị. Không ai có thể làm thay, không ai có thể buộc ép. Chỉ khi tâm mình thực sự sáng ngơi, khi bản tính Phật của mình được khai thị hoàn toàn, chúng ta mới có thể sống một đời sống đạo thực thụ, vô tưởng vô động, và lợi ích cộng đồng Phật tử Việt Nam.
Tài Liệu Tham Khảo Kinh Điển:
[1] Lời dạy của Hòa thượng: “Chư Phật vô tâm, tâm chính là Phật.” Từ Ngữ Lục của Sơ Tổ Trúc Lâm.
[2] Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Bồ Tát ma ha tát, tất cả pháp vô ngã.”
[3] Ngũ Đăng Huỳnh Nguyên Tiếp Dẫn: Hồi thoại giữa Mã Tổ và các đệ tử về vô tưởng vô động.