Trong Phật giáo, câu hỏi “tại sao người chết rồi lại trở thành ngạ quỷ?” là một vấn đề mà nhiều Phật tử quan tâm. Câu trả lời nằm ở lòng tham — đây chính là nghiệp nhân sâu xa nhất dẫn tới đường ngạ quỷ khổ sở. Hiểu rõ nguyên nhân này sẽ giúp chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc tu dưỡng tâm linh và xả bỏ những dục vọng vô tận.
Tham Lam Là Nghiệp Nhân Chính Của Đường Ngạ Quỷ
Nói một cách sâu sắc, nghiệp nhân của đường ngạ quỷ chủ yếu là lòng tham — lòng tham đốn tìm kiếm sự thỏa mãn vô hạn. Lòng tham này không chỉ giới hạn ở tài vật, mà còn bao gồm cả tham danh, tham sắc, tham ăn, và những dục vọng khác như “tài, sắc, danh, thực, thủy.” Tất cả những thứ này đều là tham lam, và chính lòng tham này mới là công việc chính tạo nên nghiệp nhân của ngạ quỷ.
Quan sát cuộc sống thế gian, chúng ta có thể thấy rằng đa số người chết đi sau này trở thành ngạ quỷ. Như vậy nói rằng họ là những con ngạ quỷ cũng không quá sai lệch — những lời nói này cũng có chứa đạo lý nhất định. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng người chết không nhất định phải đi làm ngạ quỷ, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nghiệp nhân của họ.
Đường sắc sanh là ngu si, đường A Tu La là hiếu thắng. Những tu tập căn bản mà chúng ta thực hành đều rõ ràng — chúng ta có thể nhận ra được nhân duyên quả báo khô hạt, không hề sơ sẩy. Chính mình ở trong sáu cõi hoặc ở giữa mười pháp giới, hoàn toàn do chính mình làm chủ, không phải người khác. Đây là đại học vận, là vấn đề lớn nhất của đời người.
Người ngạ quỷ trong kinh Phật được mô tả với hình dạng hung bạo, miêu tả kết quả của lòng tham
Vượt Trội Sáu Cõi Và Mười Pháp Giới
Phật dạy rằng thứ thắng nhất là siêu việt sáu cõi, siêu việt mười pháp giới. Ngoài sáu cõi ra còn có A La Hán, còn có Bích Chi Phật, có Bồ Tát, có Phật. Tại sao chúng ta không đi làm Bồ Tát, không đi làm Phật? Đó mới là người chân thật thông minh, người chân thật có trí tuệ.
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta giáng bộ kinh này, mục đích chính là bảo chúng ta siêu việt sáu cõi, luôn hồi đi làm Phật. Không gian đời sống của Phật thì rộng lớn, tận hư không, khắp pháp giới là không gian đời sống của Ngài, không như không gian của sáu cõi nhỏ hẹp, chu vi nơi này hạp nhưng rất khó siêu việt.
Những người tu hành chân chính đều thực hiện điều này theo cách riêng của họ. Chúng ta có thể học hỏi từ những vị thầy vĩ đại, những người đã thực sự chứng được giải thoát. Họ cho chúng ta thấy rằng có một con đường siêu việt tồn tại, và chúng ta có khả năng đi trên con đường đó nếu chúng ta nỗ lực tu tập.
Tôi Tâm Từ Bi Và Tâm Yêu Thương
Nếu chúng ta không muốn đưa địa ngục thì phải tu tâm từ bi, tâm yêu thương. Tâm yêu thương được tu dưỡng bằng cách nào? Mỗi người ở thế gian này đều có một vật mà trong lòng bạn yêu thương. Bạn thử nghĩ xem, ngay trong một đời này, việc gì là khiến bạn yêu thương nhất?
Hãy đem lòng yêu thương này mở rộng yêu thương tất cả chúng sanh — đây chính là đại từ đại bi. Đem tâm yêu thương này mở rộng thì sân hận liền tiêu trừ. Nếu như trong lòng thường hay nhớ đến những việc không vui mà người đó đặc tội với ta, người này ta vẫn chưa bao thù, ngày ngày khởi lên ý niệm này. Ý niệm này là không tốt, ý niệm này là oan oan tương báo không hề kết thúc, hơn nữa ý niệm này là nghiệp nhân của địa ngục.
Một ý niệm rất không tốt dễ dàng trở thành nhân duyên để dẫn dắt chúng ta vào những hoàn cảnh khổ sở. Tại sao không nghĩ tốt cho người nhiều một chút, thấy nhiều việc tốt của người khác làm? Đem ý niệm này chuyển đổi lại thì liền tiêu được tội nghiệp của địa ngục, cho dù có nghiệp nhân, nếu duyên không có thì sẽ không đưa địa ngục.
Tham Lam Là Lòng Tham, Cần Phải Giác Ngộ
Cơi ngạ quỷ là lòng tham, điều này cũng rất khó đoán, phải có cảnh giác cao độ. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày phải tri tức thường lạc, quyết không mong cầu quá đắng, bạn liền qua được rất an vui, rất tự tại. Ngày tháng bạn qua được rất khổ cực — là tự do đâu mà ra? Là do tham cầu, lòng tham không có biên giới, đó là khổ hại vô biên.
Nếu như tri tức thì khổ của bạn liền dừng lại, liền bị định chí, đời sống sau này là thường lạc. Đến lúc nào là lìa khỏi được cái khổ? Tri tức thì khổ sẽ không còn. Mặc áo biết đủ thì cái khổ ngày ngày nghĩ tưởng mặc quần áo tốt sẽ không còn; ăn uống biết đủ, không còn chú trọng đến sắc hương vị thực thì cái khổ đó cũng không còn. Cho nên năm dục sâu trần, bạn tri tức đối với thứ nào thì cái khổ của loại đó liền rồi khỏi bạn.
Lìa khỏi khổ liền được vui. Phật Bồ Tát, các tổ sư đại đức đều thị hiện như vậy cho chúng ta thấy. Ngày trước vào thời kỳ học Phật, tôi thân cận là lão cơ sở Lý Bỉnh Nam mười năm. Khi tôi thân cận với thầy thì thầy đã hơn 70 tuổi rồi, cũng gần bằng với tuổi của tôi hiện tại, vào lúc đó tôi mới 30 tuổi. Thầy tri tức thường lạc, mỗi ngày chỉ mặc một bộ Trung Sơn, mấy mười năm không hề thấy thầy đổi qua bộ y phục thứ hai.
Bởi vì y phục bên trong của thầy không nhìn thấy, nên đến khi thầy vãng sanh, chúng tôi mới biết được áo lót bên trong thầy đã đấy và nhiều lần, võng cũng đấy và. Hiện tại các vị đến Đại Trí, trong phòng trưng bày kỷ niệm lão sư Lý xem, áo lót bên trong, võng đều là đấy và nhiều lần. Ai vá cho thầy vậy? Thầy chính mình vá. Đời sống của thầy an vui không gì bằng.
Không phải thầy không có tiền, học trò nhiều đến như vậy, học trò có tiền rất nhiều, đưa tặng cũng đường cho thầy rất phong phú. Tôi không hề nghĩ đến bên trong Ngài lại mặc áo rách, vì sao vậy? Có một số người tặng cho thầy quần áo tốt, sau khi người tặng đi rồi, thầy liền đưa tôi. Thầy nói: “Ông đến đây, ông không có quần áo mặc, cái này cho ông nè.”
Hiện tại tôi vẫn còn giữ lại hai bộ áo lót trong cao cấp do thầy tặng cho tôi, tôi cũng không nỡ mặc nên để đó, hiện tại vẫn còn. Các môn ăn, quần áo mặc, qua tay thì thầy liền tặng cho người, thầy tri tức thường lạc, nhu cầu đời sống chính mình đủ rồi, quyết định không yêu cầu quá đắng. Cả một đời của Ngài, một ngày ăn một bữa, ăn rất ít, nhưng sức là làm việc của thầy nhiều, ba ba người chúng ta cũng không thể so được với thầy.
Năng Lực Của Người Tu Hành
Ngày nay chúng ta muốn nói, năng lực này của thầy không phải người phổ thông chúng ta có thể làm được, vậy thì hoàn toàn nghĩ sai rồi. Thầy là người, chúng ta cũng là người, chúng ta phải suy xét xem vì sao thầy có thể mà ta không thể? Đến sau này tôi mới chân thật hiểu thông.
Hiểu thông rồi, tôi liền hỏi thầy là cách nghĩ cách thấy này của tôi có đúng hay không. Tôi nghĩ đến cái gì? Thân thể con người là một cái máy, nếu muốn vận hành cái máy này thì phải tiêu hao năng lượng (năng lượng chính là bổ sung ăn uống của chúng ta), tuy nhiên lượng tiêu hao của mỗi một người khác nhau. Có một số người thân thể hao năng lượng, họ phải bổ sung số lượng lớn; nhưng có một số người thân thể tiết kiệm năng lượng, chỉ cần bổ sung chút ít thì đủ rồi.
Cho nên tôi liền nghĩ, năng lượng rốt cuộc tiêu hao vào đâu? Là vào nơi vọng tưởng, nghĩ tưởng xáng bảy. Chân thật gọi là lao tâm lao lực thì năng lượng tiêu hao đều ít, đều không nhiều. Phàm phu chúng ta một ngày ăn ba bữa vẫn không đủ, còn phải ăn chút điểm tâm, còn phải ăn đủ thứ, toàn là do nghĩ tưởng xáng bảy, ngay đến buổi tối ngủ nằm mộng cũng không thành thật, cho nên chúng ta cần phải bổ sung.
Nếu không bổ sung thì chúng ta sẽ bị bệnh, chúng ta không thể đứng nổi. Trên 95% năng lượng tiêu hao ở nơi vọng tưởng. Tôi đem quan điểm của tôi báo cáo với lão sư, lão sư khẳng định không sai, chính là như vậy.
Tâm Thanh Tịnh Và Ăn Uống Tối Giản
Cho nên người tu hành tâm cũng thanh tịnh thì ăn uống của họ sẽ cũng ít đi. Chúng ta xem thấy ở trên kinh, năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, những vị Tứ Kheo đó giữa ngày ăn một bữa, mỗi ngày ra bên ngoài khất thực ăn một bữa. A La Hán bảy ngày đi khất thực một lần, bảy ngày ăn một bữa. Bích Chi Phật nửa tháng đi khất thực một lần, hai tuần lễ ăn một bữa. Đây là nói rõ, công phu cũng cao, tâm cũng thanh tịnh thì tiêu hao năng lượng cũng ít.
Cho nên Bích Chi Phật nửa tháng ăn một bữa, năng lượng một bữa đó của họ đủ để duy trì nửa tháng, họ cũng giảng kinh nói pháp, cũng đi khắp nơi độ chúng sanh. Như vậy chúng ta mới tưởng tín, tiêu hao năng lượng chân thật đều là tiêu hao ở nơi vọng tưởng, cho nên nhất định tâm phải thanh tịnh mới được. Việc này không thể học, vì học sẽ ra bệnh, không phải nói học để cho dễ coi.
Họ một ngày ăn một bữa, con người này có công phu, có bản lĩnh, nếu bạn có cách nghĩ như vậy thì hoàn toàn sai lầm, bạn vẫn là khởi vọng tưởng. Cho nên bất cứ việc gì đều có đạo lý, luôn phải đem đạo lý đó làm cho rõ ràng, làm cho tưởng tín, chúng ta mới có chỗ để học tập.
Xả Bỏ Năm Dục Sâu Trần
Đây là nói xả bỏ năm dục sâu trần, xả bỏ tham ái, chỉ lấy cái cần yếu thì đủ rồi. Ngoài thứ cần yếu ra, nếu còn dư ra (đó là bạn có phước báo) thì giúp đỡ người khác, giúp cho những người cần đến, như vậy thì phước báo của bạn không hề cùng tận.
Người thế gian giàu có, tiền là do bạn kiếm được phải không? Không phải vậy. Bạn nói bạn có thể kiếm được, tại sao người khác không kiếm được? Do đây có thể biết, tiền không phải do kiếm mà được, mà từ đâu mà có? Trong mạng của bạn đã có. Trong “Liêu Phàm Tứ Huấn” nói rất rõ ràng, trong mạng của bạn có bao nhiêu tiền tài thì ngay trong đời này bạn hưởng dụng bấy nhiêu tiền tài; trong mạng không có, bạn có cầu thế nào cũng không cầu được.
Mạng này là do ai định vậy? Mạng là do chính mình tạo, không phải người khác định đặt cho bạn. Ngay đời này chúng ta có được tiền tài, tiền tài từ do đâu mà có? Do phước báo của bổ thí tài. Trong đời quá khứ tu tài bổ thí được nhiều, ngay trong một đời này phước báo có được sẽ lớn, được tiền tài to; trong đời quá khứ tu pháp bổ thí, thì ngay trong đời này được thông minh trí tuệ; trong đời quá khứ tu vô úy bổ thí, thì ngay đời này được khỏe mạnh sống lâu.
Có nhân ắt có quả, có quả nhanh nhất định có nhân. Chúng ta xem thấy quả báo thì biết được cái nhân mà họ đã tạo, xem thấy cái nhân thì liền biết được tương lai quyết định có được quả báo gì, việc này nhất định không thể sai khác.
Giác Ngộ Về Tham Lam Và Tri Thức
Cho nên, nếu chúng ta không muốn làm ngạ quỷ thì phải đoạn dứt đi lòng tham, nhất định phải học tri tức thường lạc, chỉu giúp đỡ người khác, chỉu bổ thí, tiền của bạn dùng vĩnh viễn sẽ không thiếu hụt, cũng thí cũng nhiều.
Tuy nhiên khi nhiều rồi vẫn phải xả, bạn thấy trong Phật pháp dạy chúng ta “xả đắc.” Ý nghĩa của xả đắc rất sâu, giản lược mà nói là bạn có thể xả thì bạn liền có đắc. Xả tài được tài, xả pháp được pháp, xả cái gì thì liền được cái đó. Xả là nhân, đắc là quả. Tuy nhiên sau khi bạn được rồi thì vẫn phải xả, đem cái có được cũng xả đi hết. Cho nên hai chữ “xả đắc” này có hai loại ý nghĩa trong đó.
Bạn có được món đồ đó thì nhất định phải xả, không xả thì phiền phức liền đến, nhất định phải xả. Người hiểu được xả là người có trí tuệ, là người chân thật giác ngộ. Sau khi có được rồi lại tích lũy chất chứa, con người đó không có trí tuệ, đó là người ngu si. Cho nên, sau khi bạn có được rồi thì lập tức phải xả, có như vậy bạn mới có thể vĩnh viễn không đưa vào đường ngạ quỷ.
Đây là nói xả bỏ năm dục sâu trần, là xả bỏ tham ái. Bất cứ việc gì đều có đạo lý, luôn phải đem đạo lý đó làm cho rõ ràng để chúng ta có chỗ học tập. Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta xây dựng một nền tảng vững chắc cho con đường tu hành, từng bước vượt trội khỏi những khổ sở của thế gian, hướng tới giác ngộ và giải thoát.
Tài liệu tham khảo:
- Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh
- Người giảng: Lão Hoà Thượng — Pháp Sư Tịnh Không, Tập 104
- Liêu Phàm Tứ Huấn (Lời dạy cho những kẻ phàm phu)