Image default
Phật Học Ứng Dụng

Nhận Biết Chư Phật, Bồ Tát Qua Hình Dáng Tượng Thờ

Vào chùa lễ Phật, dù ở ngoài đời mỗi người mang theo tâm tính nhưng khi đứng trước Ban thờ Phật, mọi bộn chen, toan tính của đời thường dường như không còn nữa. Mà thay vào đó là những khuôn mặt hướng thiện, những ánh mắt trong sáng, chan chứa niềm tin gửi nơi cửa Phật.

Cứ nhìn cụ chỉ dâng hương, ánh mắt thẫm kính, và những cái chắp tay lấy Phật của tín đồ Phật giáo mới thấy lòng chí thành, khẩn thiết của họ, mỗi cảm nhận sâu sắc sự tôn nghiêm, thanh tịnh chùn Phật đường.

Tuy vậy, cũng không ít Phật tử đang thành tâm hành lễ dâng hương lại không biết mình đang đứng vái lấy trước chư Phật (Phật và Bồ Tát) nào. Hãy cùng tìm hiểu để có thể nhận biết chính xác các vị Phật và Bồ Tát thường được thờ trong các ngôi chùa trên đất nước ta.

Tượng Thờ Phật Thích Ca

Tượng Phật Thích Ca có mặt tròn, đầu được tạo nên từ những cuộn tóc xoắn tự nhiênTượng Phật Thích Ca có mặt tròn, đầu được tạo nên từ những cuộn tóc xoắn tự nhiên

Tượng thờ Phật Thích Ca có mặt tròn, đỉnh đầu có gò thịt nổi cao, cằm vuông vạc, nơi giao gõ đường (chỗ đầu hai lông mày giao nhau) có một ruỗi độ. Tai dài, trên, đầy đặn, tạo quánh phân minh, sắc trắng hơn mặt. Hai tay dài và đầy. Ngực có chữ vạn, mình vàng, sắc hoàng kim.

Cũng tùy theo bộ trí thờ cũng của mỗi chùa mà tượng Phật Thích Ca có các tư thế đứng, ngồi khác nhau. Tuy nhiên, tượng Phật Thích Ca thường được tác theo thế ngồi trên đài sen, hai tay để ấn tam muôi, đôi mắt khép lại ba phần tư. Trong từng kiếp Phật, hình tượng Phật Thích Ca luôn đại diện cho sự giác ngộ và chỉ dạy con đường tu hành đúng đắn.

Tượng Thờ Phật Di Lặc

Phật Di Lặc thường được an vị ngay ở cửa ra vào chùa, hiếm khi ở chính điệnPhật Di Lặc thường được an vị ngay ở cửa ra vào chùa, hiếm khi ở chính điện

Phật Di Lặc là vị Phật của tương lai, sẽ xuất hiện trên thế gian khi Phật Thích Ca Mâu Ni đã vào Niết Bàn và giáo pháp đã hoàn toàn tiêu mất. Theo kinh điển, khi Phật Di Lặc thành Phật, thế giới sẽ trở nên như lạc độc, không còn khổ đau.

Khi thờ ở Tam Thế Phật thì tượng Phật Di Lặc giống tượng Phật Thích Ca nhưng khi thờ riêng, thường là ở ngay chỗ cửa ra vào thì tượng Phật Di Lặc được tác theo tư thế ngồi ngả lưng ra đằng sau, nhíp miệng ra cười ngật nghe hơi hở như khoe cái bụng phúc, béo tròn, vô lo vô nghĩ của mình. Mà cũng giống như niềm hoan hỉ chào đón khách thập phương và hoan hỉ ban niềm tin cho du khách.

Cũng có chùa thờ Ngài Di Lặc theo tượng hình một vị hòa thượng mập mạp, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng to tương, xung quanh Ngài có năm, sáu đứa trẻ quấy nhiều mà Ngài vẫn cười ngật nghe hơi hở.

Tượng Thờ Phật A Di Đà

Phật A Di Đà mang tính chất siêu việt với hình dáng trang nghiêm và ánh sáng hào quangPhật A Di Đà mang tính chất siêu việt với hình dáng trang nghiêm và ánh sáng hào quang

Phật A Di Đà là hiện thân của đời sống vĩnh cửu và trí tuệ hào quang nên có hai danh hiệu: Vô lượng thọ Phật (đời sống của Phật dài vô lượng, vô biên) và Vô lượng quang Phật (hào quang của Đức Phật chiếu tới các cõi thập phương). Đây là vị Phật vô cùng quan trọng trong Phật giáo Tây phương, với đạo tràng Cực Lạc được mô tả là nơi tối thượng an lạc.

Theo lời Phật Thích Ca trong kinh A Di Đà thì cõi Phật ở phương Tây cách xa Trái Đất hàng vạn ức dặm. Cõi Phật có tên Cực Lạc quốc (Sukhavati), là nơi có đời sống hạnh phúc, an lạc. Chúng sinh nào muốn được vãng về cõi Cực Lạc thì phải thành tâm tu trì, tin được Phật A Di Đà.

Tượng Phật A Di Đà thường có những nét đặc trưng: Đầu có các cuộm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nở cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo ca sa, ngực có chữ vạn ở khoảng trống của áo ca sa, ngồi hoặc đứng trên tòa sen. Một số chùa thờ tượng Phật A Di Đà theo hai thế:

Thế ngồi kiết giả trên tòa sen: Tay kiết định ấn, hình dáng tương tự như Phật Thích Ca nhưng có sự khác biệt: tượng Phật Thích Ca thường đắp ca sa choàng qua cơ không có đắp y (ca sa) khoác vuông để trông, trước ngực có chữ vạn và không bao giờ dưới một cánh tay.

Thế đứng trên hoa sen: Lơ lửng trong hư không, bên dưới là bộ cá sống nổi lên rất cao, mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lô và đưa lên ngang vai, tay mặt dưới xuống như sẵn sàng cứu vớt những chúng sinh đang đắm chìm trong bộ khổ. Tượng này gọi là tượng Di Đà phóng quang, biểu tượng cho sức cứu độ vô hạn của Phật A Di Đà.

Tượng Thờ Quan Thế Âm Bồ Tát

Quan Thế Âm Bồ Tát được thờ ở nhiều dạng khác nhau, phổ biến nhất là hình dáng phụ nữ quý pháiQuan Thế Âm Bồ Tát được thờ ở nhiều dạng khác nhau, phổ biến nhất là hình dáng phụ nữ quý phái

Đức Phật nói về thần lực của Quan Âm trong kinh Phổ Môn rằng: Nếu một ngàn chúng sinh có tâm thành cầu nguyện Đức Quan Âm thì đông một lúc đó có một ngàn Bồ tát Quan Âm liền ứng hiện, Ngài sẽ hiện thân hình tượng ứng với nhu cầu của con người như hiện thân tỳ kheo, hiện thân cộc sĩ, hiện thân ngoài đạo… Sự linh hoạt này cho thấy tấm lòng từ bi vô biên của Bồ tát.

Tượng thờ Phật Bà Quan Thế Âm được thờ tại các chùa đều theo các cách thể hiện: Quan Âm Chuẩn Đề (tượng có ba mặt và 18 tay), Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt (Thiên thủ, thiên nhãn), Quan Âm Tòa Sơn (Quan Âm ngồi trên đỉnh núi), Phật Bà (Quan Âm độc mụ, ngồi tòa sen), Quan Âm Tổng Tử (Quan Âm ngồi bế đứa bé, một bên có Thiện Tài – biểu trưng bằng hình con vật)…

Tượng thờ Phật Bà Quan Thế Âm tại các ngôi chùa Việt Nam thường là hiện thân hình dáng của người phụ nữ quý phái, nhân hậu, dễ dàng, đứng trên đài hoa sen tay trái cầm bình thanh tịnh, tay phải cầm cánh dương liễu để phá độ chung sinh. Cũng có một số chùa lại thờ theo lời Di Đà Tam Tôn: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả là Quan Thế Âm Bồ Tát, bên hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát.

Tượng Thờ Văn Thù Bồ Tát

Văn Thù Bồ Tát được tôn vinh là bồ tát của trí tuệ, thường được thờ trên lưng sư tử xanhVăn Thù Bồ Tát được tôn vinh là bồ tát của trí tuệ, thường được thờ trên lưng sư tử xanh

Văn thù Sư Lợi là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được bằng phương tiện tri thức, là một trong những vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo. Theo truyền thuyết Phật giáo Trung Quốc, Văn Thù Bồ Tát được Phật Thích Ca dịch thân giao phó việc truyền bá Phật pháp và Ngũ Đài tại sơn chính là nơi Bồ Tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là trụ xứ của Văn Thù Bồ Tát.

Văn Thù Bồ Tát thường được tác theo tượng đứng trên hoa sen trắng, an vị bên trái tượng Phật Thích Ca (theo thế đứng vái lấy của người dâng lễ) để theo hầu Phật Tổ. Nhưng cũng có chùa thờ riêng Văn Thù Bồ Tát ngồi trên lưng sư tử xanh, tay trái cầm cánh hoa sen xanh, tay phải cầm thanh kiếm sắc. Cũng có chùa thờ tượng Ngài theo hình thức người cộc sĩ đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm.

Tượng Thờ Phổ Hiền Bồ Tát

Phổ Hiền Bồ Tát thường được thờ trên lưng voi trắng, biểu tượng cho sức mạnh của trí tuệPhổ Hiền Bồ Tát thường được thờ trên lưng voi trắng, biểu tượng cho sức mạnh của trí tuệ

Phổ Hiền là vị Bồ tát đăng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy theo mong cầu của chúng sinh mà Ngài hiện thân hóa độ. Trong Phật giáo Đại thừa thì Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng, đại diện cho tấm lòng từ bi vô biên dành cho tất cả chúng sinh.

Phổ Hiền Bồ Tát thường được an vị đứng trên tòa sen, bên phải tượng Phật Thích Ca (theo thế đứng vái lấy của người dâng lễ) để theo hầu Phật Tổ. Thường được thờ chung với Văn Thù Bồ Tát bên cạnh Phật Thích Ca, tạo nên bộ ba tượng gọi là Tây Phương Tam Thánh hay Tây Phương Tam Tôn.

Tại các chùa, Phổ Hiền Bồ Tát hay được thờ riêng với tượng hình người cộc sĩ cưỡi voi trắng sáu ngà (voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt chướng ngại, sáu ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sâu giác quan). Voi trắng biểu tượng cho sự nhẫn nại, mạnh mẽ và trí tuệ vô biên.

Tượng Thờ Địa Tạng Bồ Tát

Địa Tạng Bồ Tát được tôn vinh là người cứu độ tất cả chúng sinh trong địa ngụcĐịa Tạng Bồ Tát được tôn vinh là người cứu độ tất cả chúng sinh trong địa ngục

Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ tát chuyên cứu độ sinh linh trong địa ngục và trả con yếu tử hoặc cứu giúp lũ hành phương xa. Đây là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả với bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt) trên trán, một trong ba mươi hai tướng tốt của một vị Phật. Sự hiện diện của Bồ Tát Địa Tạng mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai đang chìm trong khổ đau.

Tại Trung Quốc và các nước Đông nam Á, Địa Tạng Bồ Tát được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quan Thế Âm, Văn-thù-sư-lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục. Trụ xứ của Bồ Tát Địa Tạng là Cửu Hoa sơn. Truyền thuyết, Địa Tạng Bồ Tát đã thật sự hiện thân tại nơi Cửu Hoa và vào đời Đường dưới dạng một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân của vị hoàng tử này không tan rũa và người dân bản địa đã xây một ngôi tháp để thờ và bảo tháp đó ngày nay vẫn còn trên núi Cửu Hoa.

Tượng Địa Tạng Bồ Tát thường có dáng một vị tăng đầu đội mũ thắt pháp (trên mũ có hình 7 vị Phật), mặc áo ca sa đỏ, tay phải cầm gậy tích trường có 12 khoen, tay trái cầm ngọc minh châu, ngồi trên tòa sen. Ở một số chùa, tượng Bồ Tát Địa Tạng lại được tác ở tư thế đứng hoặc cưỡi trên lưng một con vật giống như sư tử.

Tượng Thờ Đại Thế Chí Bồ Tát

Đại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho sức mạnh và trí tuệ, thường được thờ bên cạnh Phật A Di ĐàĐại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho sức mạnh và trí tuệ, thường được thờ bên cạnh Phật A Di Đà

Đại Thế Chí Bồ tát còn gọi là Đắc Đại tháy Bồ tát, Đại tinh tấn Bồ tát, Vô biên quang Bồ tát… Là vị Bồ tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loại, làm cho chúng sinh thoát khổ thành tựu quả vị Vô thượng bồ Đề. Tượng Ngài mang tính chất thanh tịnh, sâu kín, biểu tượng cho sự chứng đắc cao cả.

Theo kinh “Quan vô lượng thọ”, Bồ tát thân cao tám mười muôn ức, da màu vàng tựa kim, trong thiên quang của Bồ tát có 500 hoa bâu, mỗi một hoa bâu có 500 đôi bâu, trong mỗi đôi đều hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật, nhực kể như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kể có một hình bâu, khác hình tượng Quan tháy Âm Bồ tát.

Theo “A lợi Đà la Đà la ni a lô lô câu”, thì hai Bồ tát (Đại Thế Chí và Quan Thế Âm) đều toàn thân màu vàng, phóng hào quang trắng, tay phải cầm phát trần trắng, tay trái cầm hoa sen, nhưng thân hình Bồ tát Đại thế chí nhỏ hơn thân hình Bồ TátQuan Thế Âm.

Tại các chùa Việt Nam, tượng Đại Thế Chí Bồ tát thường được tác theo hình dáng người cộc sĩ, cặp đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh, đứng bên trái Đức Phật A Di Đà (theo thế đứng vái lấy của người dâng lễ) để theo hầu Phật A Di Đà. Đây là lối thờ Di Đà Tam Tôn: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả là Quan Thế Âm Bồ Tát, bên hữu là Đại Thế Chí Bồ Tát. Khi đứng riêng thì tượng Đại Thế Chí Bồ tát được tác theo nhiều hiện thân, nhưng cơ bản là hình tượng cộc sĩ ngồi hoặc đứng trên tòa sen, tay cầm một cánh sen.

Tượng Đức Thái Hồn Thánh

Đức Thái Hồn Thánh là Anan, thợ tỳ kheo đầu tiên được Phật Thích Ca chuẩn chứng ArhatĐức Thái Hồn Thánh là Anan, thợ tỳ kheo đầu tiên được Phật Thích Ca chuẩn chứng Arhat

Đức Thái Hồn Thánh được thờ ở các chùa, chính là Ngài Anan tôn giả, để tử đề nhất đa văn của Đức Phật. Theo Phật giáo Đại thừa ngài còn phát nguyện độ sinh do Đó Ngài còn tái sinh nhiều lần để cứu vớt chúng sinh. Tượng ngài được đặt ở bên trái của Bái Đường. Tượng có khuôn mặt thanh thoát, hiền tử, đầu đội mũ có 7 cánh sen, mỗi cánh sen có hình một Đức Phật, một tay cầm chén, một tay bắt ấn.

Anan được xem là người tích lũy kiến thức Phật pháp nhất, được gọi là “tì kheo đắc đạo nhất” trong tám vị Arhat. Sự tu tập của Anan là ví dụ sáng chói cho những ai muốn lãnh hội sâu sắc giáo lý Phật đà.

Tượng Đức Ông

Đức Ông là một vị Cụ Sĩ được Phật giáo tôn vinh, thường được thờ ở bên phải Bái ĐườngĐức Ông là một vị Cụ Sĩ được Phật giáo tôn vinh, thường được thờ ở bên phải Bái Đường

Có chùa ghi là Đức Chúa, được an vị ở bên phải Bái Đường. Tượng được tác theo hình dáng quan văn, đầu đội mũ cánh chuẩn, mặt đứ, râu dài, về mặt nghiêm nghị. Tượng này thể hiện tính cách nghiêm túc, trách nhiệm trong việc bảo vệ và quản lý nơi thờ tự.

Theo điển tích Phật giáo thì khi Đức Thích Ca vừa thành đạo, Trưởng giả Cấp Cô Độc, một nhân vật thời Đức Thích Ca tại tế, đã mua một khu vườn cây xây tự tính xá, ngôi chùa rất to, thỉnh Phật Thích Ca vãng về thuyết pháp. Sau này Ông được coi là người bảo vệ tài sản của nhà chùa. Vì vậy người ta gọi là Đức Ông hay Đức Chúa Gia Lam Châu Tử.

Đức Ông được tôn vinh như một vị cụ sĩ tích cực trong việc xây dựng và phát triển Phật pháp, là hình ảnh của lòng từ bi và trách nhiệm xã hội trong Phật giáo.

Kết Luận

Nhận biết chính xác hình dáng của các vị Phật và Bồ Tát không chỉ giúp chúng ta tôn trọng đúng đối tượng khi lễ bái mà còn giúp chúng ta hiểu sâu hơn về giáo lý Phật đà mà từng vị đại diện. Mỗi vị Phật, Bồ Tát đều mang đặc tính và ý nghĩa tu tập khác nhau, từ Phật Thích Ca tượng trưng cho sự giác ngộ, Phật A Di Đà biểu thị niềm tin và cứu độ, Quan Thế Âm thể hiện lòng từ bi vô biên, cho đến các Bồ Tát như Văn Thù đại diện cho trí tuệ, Phổ Hiền tượng trưng cho thực hành.

Khi vào chùa lễ Phật với hiểu biết về các vị này, chúng ta sẽ thành tâm và tôn kính hơn. Hãy luôn ghi nhớ rằng việc lễ bái là để nuôi dưỡng tâm định, thanh tịnh tâm hồn, tiến gần hơn tới bình an, giải thoát theo giáo pháp Phật dạy. Tiếp tục học hỏi và tu tập sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm về phong phú hình thức thờ tự trong Phật giáo, đồng thời giúp quãng đường tu hành của mỗi người trở nên rõ ràng và chắc chắn hơn.

Related posts

Cảm Ơn Thời Gian – Bài Học Về Sự Trôi Chảy Và Những Giá Trị Thật Sự

Administrator

Tu Tập Không Phải Là Bỏ Việc: Cân Bằng Cuộc Sống Và Đức Tin Phật Giáo

Administrator

Giữ Lại Những Gì Còn Sót Lại Sau Bão: Bài Học Về Sự Sống và Lòng Nhân

Administrator