Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Những Di Huấn Cuối Cùng Của Đức Phật Trước Khi Nhập Niết Bàn

Trong những ngày cuối đời, trước khi nhập Niết Bàn tại rừng Sa-la, Đức Phật đã thể hiện sự trí tuệ và lòng từ bi vô biên qua những lời dạy trọng yếu. Mặc dù thân thể già nua, bệnh tật nặng, Ngài vẫn giữ tâm chính niệm, tinh giác, chịu đựng cơn đau ấy mà không một chút than thở. Đây chính là những bài học quý báu nhất mà Đức Phật để lại cho cộng đồng Tăng đoàn và nhân loại – những giáo huấn vượt thời gian, hướng dẫn con người tìm tới giải thoát bằng sự tự giác, tự giải thoát.

Không Phải Người Lãnh Đạo Tăng Đoàn

Suốt gần bốn mươi năm hành đạo, Đức Phật chưa bao giờ xem bản thân mình là người thống lĩnh Tăng đoàn. Những điều cần thiết trên con đường giải thoát, Ngài đã chỉ dẫn mà không giấu giếm bất cứ điều gì. Trước các vị Tỳ-kheo, Ngài tuyên bố rõ ràng rằng các đệ tử cần phải nương vào Pháp mà tu tập, không cần thiết phải có người là lãnh đạo. Vì vậy, Đức Phật dạy: “Nay Ananda, chúng Tỳ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Nay Ananda, Ta đã giảng Chính pháp, không có phân biệt trong ngoài, vì nay Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít giáo lý bí mật chưa giảng dạy).”

Những lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật không nhằm để tôn vinh vai trò Đạo sư, cũng không xuất phát từ động cơ phát triển tôn giáo hay chủ thuyết của mình. Mà chỉ vì lòng đại bi thương yêu đệ tử muốn cho họ được sớm thành tựu giải thoát. Ngài tưng dạy: “Các Như Lai giảng dạy Chính Đạo, nhưng chính các người phải là người làm việc của mình”. Có thể thấy rằng, Đức Phật đã tìm ra con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng đi đến giải thoát, Niết-bàn đó hay không, chúng ta phải tự bước trên con đường ấy. Chính vì điều này nên Đức Phật không muốn bắt cứ ai, kể cả những vị Tỳ-kheo đệ tử cũng không nên nghĩ Ngài là người điều khiển Tăng-già.

Đức Phật trước những phút cuối cùng tại rừng Sa-la, thân thể già yếu nhưng tâm thanh tịnhĐức Phật trước những phút cuối cùng tại rừng Sa-la, thân thể già yếu nhưng tâm thanh tịnh

Pháp Và Luật Là Đạo Sư

“Nay Ananda, nếu trong các người có người nghĩ rằng: ‘Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo sư (giáo chủ)’. Nay Ananda, chớ có những tưởng như vậy. Nay Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo sư của các người”.

Lời dạy này thể hiện sự bao dung đặc biệt của Đức Phật. Ngài đối đãi hài hòa đối với chúng Tăng, không nghĩ mình là vị giáo chủ. Ngài cũng không muốn chúng Tăng ỷ lại vào mình, mà hãy lấy Pháp và Luật làm nguyên tắc sống cho cộng đồng Tăng-già. Cần phải siêng năng học hỏi giáo lý, trau dồi giới hạnh và thực tập thiền định để mở mang trí tuệ tuệ, không cần phải bôn ba tìm kiếm sự giải thoát bất cứ nơi đâu. Lời giáo huấn rất thiết tha và nhân bản, con người là chủ nhân của chính mình, có thể tạo cho mình đời sống hạnh phúc hay khổ đau.

Đức Phật không phải là một vị thần linh hay thượng đế có quyền năng ban phúc giáng hóa, hay ban cho mình sự giác ngộ. Nên đừng ỷ lại vào Ngài, Ngài không phải là người thống lĩnh Tăng đoàn. Vậy Tăng đoàn cần phải nương nhỷ vào đâu để tu học, phát triển?

Đức Phật dạy rằng Pháp Luật chính là đạo sư thứ hai cho các đệ tửĐức Phật dạy rằng Pháp Luật chính là đạo sư thứ hai cho các đệ tử

Nương Tựa Vào Chính Pháp

Giữa biển cả mênh mông, hải đảo chính là nơi bình yên cho tàu thuyền vốn nương tựa. Vì sợ những người sau đi tìm một người là lãnh đạo để nương tựa hay một chân lý bên ngoài, nên trong những phút cuối cùng, Đức Phật dạy: “Nay Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chính pháp làm ngọn đèn, dùng Chính pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, nay Ananda, là những vị tốt thường trong hàng Tỳ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”.

Chính pháp là chân lý bất diệt mà Đức Phật đã thuyết giảng cho nhân loại. Chắc chắn rằng Chính pháp không phải là một cái gì đó trừu tượng, mù quáng, tối tăm vượt ngoài khả năng hiểu biết của con người, mà đó là một thực tại và bất cứ một người nào cũng có thể đạt đến. Nó không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Pháp mà Đức Phật dạy cốt để đưa con người từ tối ra sáng, từ vô minh đến trí tuệ.

Ngài không bao giờ nói ra những điều chỉ để thỏa mãn tò mò tri thức. Quan điểm của Đức Phật trần ngập tinh thần tự do, cầu thị và bao dung. Đức Phật bao dung đến nỗi không bao giờ dùng uy quyền để ra lệnh cho các tín đồ. Ngài chỉ khuyến khích chúng đệ tử việc này nên làm, việc kia không nên làm, chứ không hề ra lệnh bắt buộc.

Trong lời dạy đặc biệt quan trọng này, Đức Phật đã chỉ rõ và kêu gọi đừng nên tin tưởng hay đi tìm bất cứ một con đường nào khác, tránh việc cầu xin, dò dẫm mà đi nhầm đường, hãy nương tựa vào lời dạy của Ngài đã được kết đủ để có thể hướng đến một tương lai tươi sáng. Chính Ngài trước kia cũng tự nương vào bản thân mình mà thành đạo. Nếu ai sống chủ tâm trong sự tu tập, có chính niệm trong tất cả mọi hình động, dầu không cầu xin được giải thoát thì vị ấy vẫn được giải thoát.

Ngài trao cho con người quyền được tự do, không có bất cứ một điều gì rằng buộc. Bởi vì con người muốn thoát khổ, thì chính họ phải là người làm điều đó. Đức Phật như là vị lương y, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, có lương y và thuốc mà bệnh nhân không uống thì bệnh vẫn không lành, lỗi không phải do thầy thuốc mà do chính người bệnh. Cũng vậy, sự giải thoát tùy vào sự trực nhận chân lý, chứ không phải phụ thuộc vào sự cầu xin một ân huệ của thần linh hay quyền năng bên ngoài.

Cúng Dường Tới Thường Từ Tu Tập Chính Pháp

Vào đêm cuối khi Đức Phật trú tại rừng sala, các cây sala song thảo tự nhiên trổ hoa trái mùa trên những cánh lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhưng Đức Phật ca ngợi lời dạy rằng: “Nay Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đánh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Nay Ananda, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chính pháp và Tùy pháp, sống chơn chính trong Chính pháp, hành trì đúng Chính pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đánh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tới thường. Do vậy, nay Ananda, hãy thành tựu Chính pháp và Tùy pháp, sống chơn chính trong Chính pháp và hành trì đúng Chính pháp. Nay Ananda, các người phải học tập như vậy”.

Những hoa thơm, vật lạ bên ngoài chỉ là hình thức tô bọc, nó sẽ không bao giờ tồn tại lâu dài và không đem lại giá trị nào cả. Cũng vậy, Ngài biết được sau này chúng Tỳ-kheo phần lớn sẽ chú trọng hình thức bên ngoài mà không đi chuyên sâu vào phần nội dung cốt lõi của sự tu tập, nên Ngài căn dạy rất kỹ. Từ sự đánh thức này, Ngài dạy chúng Tỳ-kheo cần phải tu tập và thực hành Chính pháp. Đây mới là năng lực mạnh mẽ làm chuyển đổi phẩm chất xấu xa tồn tại trong con người của mình.

Các hình thức bên ngoài chỉ là phương tiện mà thôi, còn tu tập hướng đến sự giải thoát cho chính mình mới là cứu cánh của người xuất gia. Thực hiện như vậy mới thật sự là cúng dường tới thường theo lời Đức Phật dạy.

Những đóa hoa sala rơi xuống trong đêm cuối cùng nhưng Đức Phật chỉ ca ngợi tu tập Chính phápNhững đóa hoa sala rơi xuống trong đêm cuối cùng nhưng Đức Phật chỉ ca ngợi tu tập Chính pháp

Làm Lợi Ích Cho Đời

“Nay các Tỳ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các người, các người phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phẩm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”.

Có thể thấy trước khi nhập Niết-bàn, Đức Phật cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của hàng xuất gia là truyền bá giáo lý của Ngài đến với chúng sinh, lấy chúng sinh làm đối tượng để phụng sự. Ngài dẫn dỗ hàng đệ tử xuất gia của mình phải khéo học hỏi, tu tập thì mới có thể đi truyền bá, phổ cập đạo giác ngộ cho nhân sinh, để cho Chính pháp được trường tồn lâu dài, vì lợi ích cho sở đông.

Pháp mà Đức Phật nhắc đến được xây dựng dựa trên nền tảng Giới, Định, Tuệ. Mỗi quan hệ của ba phần này không thể phân ly. Nhờ trí tuệ mới đưa đến đoạn trừ phiền não nào, ô nhiễm, giống như lưỡi gươm cắt đứt mỗi dây rằng buộc. Chúng ta chỉ có thể đạt được an lạc, hạnh phúc, lợi ích thật sự khi có trí tuệ, chứ không phải cầu xin một đấng nào đó ban rải bởi không thể chuyển hóa bằng niềm tin.

Vì vậy mà Đức Phật nhấn mạnh chúng Tỳ-kheo cần phải học hỏi, tu tập thực chứng Chính pháp để đạt được trí tuệ, đây mới là tài sản quý báu nhất của người tu. Vì khi thực chứng được Pháp, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi đầm lầy khổ đau và có khả năng giải quyết những khổ đau mà chính chúng ta và nhân loại đang đối mặt.

Đức Phật nhấn mạnh trách nhiệm truyền bá Chính pháp là nhiệm vụ quan trọng nhất của các đệ tửĐức Phật nhấn mạnh trách nhiệm truyền bá Chính pháp là nhiệm vụ quan trọng nhất của các đệ tử

Thiết Lập Hòa Hợp Trong Tăng Đoàn

Để tránh chúng đệ tử về sau sẽ nghi ngờ các lời dạy của chư vị Trưởng lão, trước khi vào Niết-bàn, Đức Phật cũng đã dẫn dỗ rất kỹ lưỡng. Mỗi lời nói được nghe từ bất cứ người nào, các Tỳ-kheo không nên vội tán thành hay hủy bỏ lời nói ấy mà mỗi chữ, mỗi câu phải được đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, Luật thì những lời ấy là lời dạy của Thế Tôn.

Sâu sắc hơn nữa, Ngài cũng chỉ dạy những chi tiết nhỏ nhất như: “Vị Tỳ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỳ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng hạ, hoặc bằng tiếng Hiện giả. Vị Tỳ-kheo niên thiếu, hãy gọi vị Tỳ-kheo niên lão là Thượng tọa hay Đại Đức nếu chúng Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhất”.

Đức Phật đề cao trên sự thấy đúng, hiểu đúng, lãnh hội và thực hành để có kết quả chứ không phải dựa trên lòng tin. Cho nên, để giải quyết các mỏi nghi hoặc còn tồn đọng ở trong chúng Tỳ-kheo, Ngài dạy: “Nay các Tỳ-kheo, nếu có Tỳ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về Đức Phật, Pháp, chúng Tăng, Đạo hay phương pháp, thời nay các Tỳ-kheo các người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: Bậc Đạo sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tấn mặt hỏi Thế Tôn”.

Để tránh sự nghi ngờ, không hiểu rõ về giáo lý của các đệ tử, những giây phút cuối cùng, Đức Phật cũng ân cần hỏi han nếu có chỗ nào cần hỏi thì phải hỏi kỹ, để tránh phải hối tiếc về sau. Thông qua những câu nói nhẹ nhàng, đây là sự quan tâm của một người Cha trước lúc xa rời đến con, có thể thấy Ngài gần gũi và chân thật hơn bất cứ ai trên cuộc đời này có thể thấy được bằng cảm quan.

Di Nguyện Cuối Cùng Về Vô Thường Và Tinh Tấn

“Nay các Tỳ-kheo, đây là lời Ta nhắc nhủ các người. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ”.

Trong sự bao la của tâm trí con người, bất cứ khi nào chúng ta thấy được bản chất sâu sắc của một cái gì đó thì đó mới chính là thứ quý giá nhất. Thấy được bản chất của vũ trụ nhân sinh là vô thường nên lời sau cùng Đức Phật đã nhắc đến các hành là vô thường. Bởi vì Ngài sợ rằng, chúng đệ tử của mình sẽ bị lao vào vòng xoáy của cuộc đời, chịu sự biến đổi, nhấn chìm của không gian và thời gian, nên Ngài đã nhấn mạnh sự vô thường của cuộc đời, nếu tinh tấn tu tập, vượt lên trên sẽ được giải thoát.

Con người tự mình là chủ nhân của chính mình, không có một thực thể hay quyền năng nào cao hơn có thể định đoạt số phận nó. Đức Phật khuyến khích chúng ta hãy nên cố gắng nỗ lực tìm sự giải thoát cho chính mình bằng cách nương tựa vào Chính pháp. Vì rằng con người vốn có năng lực tự giải thoát mỗi rằng buộc bằng trí tuệ nếu có chính tinh tấn liên tục.

Nếu không có sự nỗ lực tinh tấn thì không có việc gì thành tựu được, vì vậy tinh tấn là đức tính luôn luôn có mặt trên lộ trình tu tập từ bước đầu tiên cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùng là giải thoát. Giáo huấn về sự vô thường của cuộc đời để khích lệ tinh thần thoát ly, đừng bám víu vào cuộc đời. Nhìn sự vô thường của cuộc đời, có hai thái độ xảy ra, một là vì cuộc đời là vô thường nên tận dụng cơ hội để tu tập không để cho thời gian trôi qua một cách trống rỗng. Hai là vì cuộc đời là vô thường nên với vãi hưởng thụ, sống buông thả không có trách nhiệm gì, thái độ thứ hai này là của hàng phàm phu không biết thành đạo, không xu hướng thành đạo.

Lời khích lệ của Đức Phật đối với đệ tử rất thiết tha rõ ràng và hợp lý. Giáo pháp đã được dạy cần phải hành trì, đời sống ngắn ngủi đừng để trôi qua một cách vô ích. Phải tự mình nỗ lực tiến lên đừng ỷ lại vào ai, ngay cả chính Đức Phật, Ngài không phải là người thống lĩnh Tăng đoàn. Vậy Tăng đoàn cần phải nương nhỷ vào đâu để tu học, phát triển?

Đức Phật khuyến khích chúng ta hãy nên cố gắng nỗ lực tìm sự giải thoát cho chính mình bằng cách nương tựa vào Chính phápĐức Phật khuyến khích chúng ta hãy nên cố gắng nỗ lực tìm sự giải thoát cho chính mình bằng cách nương tựa vào Chính pháp

Kết Luận

Những lời dạy cuối cùng của Đức Phật đã tác động đến Tăng đoàn thời hiện tại một cái nhìn tích cực hơn, nâng cao tinh thần tự giác, trách nhiệm, hòa hợp. Xoáy sâu vào tu tập cốt lõi Chính pháp, chủ trương tự giải thoát là chính, đồng thời liên hệ chặt chẽ với xã hội để truyền bá Chính pháp, thể hiện tinh thần độ tha. Tinh thần này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tu tập, sự hưng thịnh của Tăng đoàn và của Phật giáo từ quá khứ đến hiện tại và cho cả tương lai.

Những di huấn này vượt qua thời gian và không gian, từ khi Đức Phật nói cho đến nay đã hơn hai mươi năm. Chúng vẫn có giá trị vô cùng quý báu cho tất cả những ai muốn tìm đến chân lý, giải thoát khổ đau. Bản chất của những lời dạy này là sự tôn trọng tự do, tự chủ và tinh thần tự giác của con người. Đức Phật không bao giờ buộc ai phải theo, mà chỉ trình bày con đường và khuyến khích mỗi người tự mình đi tìm, tự mình thực hành, để cuối cùng đạt tới sự an lạc, hạnh phúc và giải thoát mà mình mong muốn.

Lấy những lời dạy quý báu này của Đức Phật làm hướng dẫn, những ai có lòng muốn tìm tới giải thoát, hạnh phúc thặng thêm cho bản thân và xã hội, hãy nỗ lực tu tập, nương tựa vào Chính pháp, nương tựa vào chính mình, không trông chờ vào bất cứ một sự cứu rỗi bên ngoài nào. Bởi vì chính chúng ta là ánh sáng của chính chúng ta, chính chúng ta là chỗ nương tựa cuối cùng, và chính những nỗ lực, tinh tấn của chúng ta mới là chìa khóa mở ra cánh cửa giải thoát vô tận.

Related posts

Tượng Phật Bà Quan Thế Âm Linh Ứng: Lòng Từ Bi Bảo Vệ Nhân Dân Vùng Đất Thiêng

Administrator

Vai Trò Của Ni Sư Phật Giáo Trong Thời Bắc Thuộc

Administrator

Đại Bồ-tát Địa Tạng: Vị Bồ-tát Lợi Ích Vô Lượng Chúng Sinh

Administrator