Kinh Địa Tạng là một trong những quyển kinh được nhiều Phật tử trì tụng hàng ngày. Đây là bài kinh giúp Phật tử bỏ bỏ lòng tham, sân, si và hướng thiện hơn trong cuộc sống. Khi tìm hiểu sâu hơn về giáo pháp trong kinh này, chúng ta sẽ khám phá được những lợi ích vô cùng quý báu của việc trì tụng và học tập Kinh Địa Tạng, không chỉ là cách tích lũy công đức mà còn là con đường tu tập chân chính để giải thoát khỏi vòng luân hồi.
Ý Nghĩa Thâm Sâu Của Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bốn Nguyện
Tựa đề của Kinh Địa Tạng là “U Minh Giáo Chủ Bốn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”, có nghĩa là đấng giáo chủ của cõi U Minh là Bồ Tát Địa Tạng. Một vị Bồ Tát tên Địa Tạng, người cầm trong tay phải một cây trích trường và tay trái một hạt minh châu, xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng trích trường để đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh. Tuy nhiên, ý nghĩa đó có phải là sự thực không?
Trong Phật giáo, từ “Bồn” chỉ Bồn tâm, “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Chỉ có Bồn tâm mới là tôn quý nhất, đó chính là kho Như Lai tạng tâm địa. Chỉ có Bồn tâm mới là chủ được cõi U Minh, tức là chủ được cõi địa ngục tham, sân, si của chính mình. Giáo pháp nhằm khuyến khích chúng ta nhận thức rõ ràng: địa ngục chính là địa ngục tham, sân, si. Chúng sinh khổ là do tham, sân, si đẩy đưa trong tâm, phiền não khởi phát. Để phá được cửa địa ngục này, cần phải là Bồn Tôn Địa Tạng của chính mình vậy.
Quan trọng là bản thân nhận ra được bản tính Như Lai trong tâm, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham, sân, si và cứu giúp chúng sinh muôn loài. Nếu chúng ta hiểu Bồ Tát Địa Tạng là một vị Bồ Tát có hình tượng rõ ràng, và có một cõi địa ngục thực sự, thì chúng ta sẽ sa lầy vào tha lực, rồi vô tình gạt bỏ quy luật nhân quả. Nếu thực sự có một vị Bồ Tát đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta không cần tụng kinh, tọa thiền hay tinh tấn tu học, chỉ cần một lòng cầu xin vị Bồ Tát, chờ đến lúc chết sẽ có vị này đến cứu.
Như vậy thì tinh thần ỷ lại, dựa dẫm, mong chờ sự cứu rỗi của vị Bồ Tát cũng tăng lên. Quy luật Nhân Quả cũng không còn ý nghĩa. Điều đó dẫn đến sự ra đời của Đức Phật cũng là vô nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải nỗ lực tu hành? Nếu chúng ta không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, thì có vị Bồ Tát nào cứu vớt mình được? Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh tịnh chân tâm; khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm. Ngoài tâm sẽ không có cái gì cả.
Tôn Kính Bồ Tát Địa Tạng Trong Truyền Thống Phật Giáo
Bồ Tát Địa Tạng cầm trích trường và minh châu, tượng trưng cho việc cứu độ chúng sinh khỏi khổ đau
Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, mà chắp tay, tán thán ngài, đánh lễ ngài, hay quyến luyện và kính mến ngài, người đó sẽ siêu việt 30 kiếp tội. Điều này cho thấy truyền thống Phật giáo luôn tôn kính vị Bồ Tát này như một hình mẫu của tâm từ bi, có khả năng cứu độ chúng sinh. Tuy nhiên, trong kinh điển, Phật cũng dạy chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc hơn là những hiểu biết bên ngoài.
Địa ngục chính là tham, sân, si, phiền não của chúng sinh. Địa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác, tự thân khẩu ý phát sinh ra. Địa ngục là sự tồi tạm ám chướng, là sự mê muội trong tâm thức của mọi người. Đó chính là địa ngục tự tâm. Phật nói Kinh Địa Tạng là muốn cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp bỏ tham sân si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp là nhân nơi tâm mình, rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâm và giải thoát vô minh tâm tội cũng nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với Bồn Tôn Địa Tạng của chính mình. Đó là nội dung cốt yếu của toàn bộ Kinh Địa Tạng.
Thâu Lấy Bản Chất Của Giáo Pháp
Về phần chính vắn trong Kinh Địa Tạng, khi đọc kỹ và hiểu theo ý lý sâu màu của Kinh, ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mới mẻ, mâu nhiễm. Khi hiểu rõ ý kinh, sự trì tụng mới đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng theo quẻ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường tà, vào mê tín, thì uống một đời là làm đệ tử của Đức Phật một cách vô ý. Chúng ta là đệ tử Phật, nên tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình.
Khi trì tụng Kinh Địa Tạng một cách có ý thức và sâu sắc, không chỉ là việc trang trọng mà còn là hành động tu tập thực sự. Chúng ta nên hiểu rằng mỗi lần nghe danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, chúng ta đang được nhắc nhở về trách nhiệm của riêng mình trong việc khắc phục các phiền não và giúp đỡ chúng sinh. Đây không phải là sự ỷ lại vào một lực lượng bên ngoài, mà là một lời kêu gọi để thức tỉnh tiềm năng từ bi và trí tuệ trong bản tâm.
Hai Mươi Tám Điều Lợi Ích Của Việc Trì Tụng Kinh
Trong chương 13 của Kinh Địa Tạng, Đức Phật đã nói về những lợi ích cho “bất kỳ người nam hay người nữ nào nghe kinh điển này và nghe danh từ của Bồ Tát Địa Tạng, cùng với chiêm lạ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng”. Những lợi ích này được chia thành hai mươi tám điều chi tiết, phản ánh những phúc báo vật chất và tinh thần mà người thực tập có thể nhận được.
Lúc Bồ Tát Địa Tạng báo lời nói trên vừa xong, trong pháp hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng báo cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi con đến cung trời Đao Lợi này nghe Đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng.” Trong đời sau, hoặc có người thiện nam cũng thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng Trời, Rồng v.v… nghe kinh điển này và nghe danh từ của Bồ Tát Địa Tạng, cùng với chiêm lạ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, thời những kẻ ấy được bao nhiêu điều phước lợi? Cúi mong Đức Thế Tôn và tất cả hàng chúng sinh ở hiện tại và vị lai mà nói lượt việc ấy cho.
Đức Phật báo Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lỳ nghe! lỳ nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ việc ấy cho. Trong đời sau, người thiện nam cũng thiện nữ nào thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng và nghe kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đề án môn uống, y phục, vật báu mà bỏ thí cũng dương ngợi khen chiêm lạ thời kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi ích sau đây.
Những lợi ích này được nêu ra trong kinh:
**Các hàng Trời, Rồng thường hộ niệm. Quả lành gia công ngày càng thêm lớn. Chưa nhủm nhơn về thương của Thánh. Mài khồng còn thời thất đạo Bồ Đề. Đề mặc môn ăn dủi đào đầy đủ. Những bệnh tật không đến nơi thân. Khỏi những tai nạn về lửa và nước. Không có bệnh hại vì trộm cướp. Người khác thấy đến sanh lòng kính. Các hàng Quỷ Thần theo hộ trì. Đời sau thân gái sẽ chuyển thành thân trai. Đời sau sẽ là con gái các hàng Vương Giả, Đại Thần. Thân tướng xinh đẹp. Phần nhiều được sanh về cõi trời. Hoặc là làm bực vua chúa. Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước. Có mong cầu chi cũng được toại ý. Quyến thuộc an vui. Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch. Các nghiệp về ác đạo đều trừ hẳn. Đi đến đâu cũng đều không bị sự trở ngại. Đêm năm chiêm bao an ổn vui vẻ. Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ. Nếu về đời trước có phước thời được thỉ sanh về cõi vui sướng. Các bực Thánh ngợi khen. Căn tính lanh lợi thông minh. Giàu lòng tự mãn. Rốt ráo thành Phật.”
Khuyến Khích Tiếp Tục Hành Trì
Lại như vậy nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Như hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở hiện tại và vị lai nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, đánh lễ hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc nghe các sự về bốn nguyện tu hành của Bồ Tát Địa Tạng mà ngợi khen chiêm lạ, thời sẽ đương bảy điều lợi ích ích:
“Mau chứng bực Thánh. Nghiệp ác tiêu diệt. Chỉ Phật đến ứng hộ. Không thời thất đạo Bồ Đề. Bốn lực được tăng trưởng. Việc đời trước đều rõ biết. Rốt ráo thành Phật.”
Những lợi ích này là kết quả tự nhiên của việc trì tụng Kinh Địa Tạng một cách tâm thành. Khi chúng ta tu tập với sự hiểu biết sâu sắc về ý lý của kinh, không chỉ là hành động phiếm pháp mà là thực hành chân chính, thì những phúc báo này sẽ tự động đến. Đây không phải là sự ưu đãi từ một lực lượng bên ngoài, mà là kết quả tất yếu của việc tu tập theo quy luật nhân quả. Chúng ta trì tụng Kinh Địa Tạng không chỉ để tích lũy công đức, mà để soi sáng con đường tu hành chân chính của mình.
Việc trì tụng Kinh Địa Tạng là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì và lòng tin. Mỗi ngày trì tụng, chúng ta đều bỏ một bước trên con đường giải thoát. Qua kinh điển này, Đức Phật muốn chúng ta hiểu rằng sức mạnh thực sự nằm trong chính chúng ta, trong khả năng nhận thức và tu tập của bản tâm. Vì vậy, hãy tiếp tục hành trì, không ngừng tu học để dần dần khắc phục các phiền não, phát triển từ bi và trí tuệ, và cuối cùng đạt được giải thoát chân chính.