Trong truyền thống Phật giáo Đại Thừa, pháp thân được xem là một trong ba thân tùy duyên mà chư Phật hiển hiện để độ thoát chúng sinh. Đó không phải là một thân thể vật chất giới hạn trong không gian và thời gian, mà là biểu hiện của tâm tuệ và từ bi vô lượng của Đức Phật. Để hiểu rõ hơn về khái niệm quan trọng này, chúng ta cần tìm hiểu sự khác biệt giữa pháp thân và các thân khác, cũng như cách nó liên quan đến tu tập và giác ngộ của chúng sinh.
Pháp thân của chư Phật khác biệt cơ bản với thân của chúng sinh ở một điểm quan trọng: đó là một tổng thể không còn ẩn giấu trong các ngũ uẩn như thân của chúng ta. Tướng và dụng của nó đã hiển dạy đầy đủ. Khái niệm này không phải được phát minh gần đây, mà đã được nêu rõ trong các kinh điển Phật giáo từ hơn 2500 năm trước, đặc biệt là trong các luận Đại Thừa như Luận Đại Thừa Khởi Tín.
Pháp Thân Là Một Trong Ba Thân Của Phật
Theo học thuyết Phật giáo Đại Thừa, ba thân của Phật bao gồm: Pháp thân (tính chất siêu viêt), Báo thân (thân trang nghiêm tự thụ) và Ứng hóa thân (hiển hiện để độ chúng sinh). Mỗi thân có chức năng và đặc điểm riêng, nhưng chúng đều phát xuất từ cùng một bản chất Phật tính siêu tối.
Pháp thân được miêu tả là “nhất tâm chân nguyên” – tâm tính siêu tuyệt, không thuộc về mê muội duyên sinh, không bị các pháp tục lệ chi phối. Đây chính là bản thể của Phật tính, là nguồn cội của tất cả các hiện tượng vũ trụ. Nó không phải là một đối tượng nhận thức được bằng các giác quan bông lông, mà là một thực tại tuyệt đối vượt ngoài tất cả hình tướng, sắc tướng.
Đức Phật Thích Ca tịnh định trong pháp thân siêu tối không hình tướng
Điểm đặc biệt là pháp thân vừa không phải là sắc tướng (có hình dáng), vừa không phải là phi sắc (hoàn toàn vô hình), mà nó chính là bản thể của cả sắc và tâm. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Kiến kiến chỉ thời, kiến phi thị kiến” – tức là khi thoáng kiến được bản thực tướng của cái kiến thì cái kiến đó không còn là kiến nữa.
Pháp Thân Không Phải Là Đối Tượng Nhận Thức Thông Thường
Khác biệt với sắc tướng của thế giới hiện tượng
Theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, “pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đẫm kia đẹp đói qua lại cũng thấy”. Sắc tướng mà chúng ta thường nói đến chỉ là pháp sở của một giác quan nhất định – đó là những gì ta có thể quan sát thông qua mắt. Bởi vì chúng ta vẫn còn trong vòng đời duyên sinh, nên cái tướng mà chúng ta nhìn thấy được mô tả là “đẹp đói qua lại” – có nghĩa là nó thay đổi, sinh diệt, có ranh giới.
Pháp thân không phải là sắc tướng như vậy, cũng không phải là một phần khác của sắc (như hương, vị, xúc), và không phải là chính cái tháy hay sự nhận biết. Đây chính là điểm mà kinh Lăng Nghiêm muốn nhấn mạnh: “Kiến kiến chỉ thời, kiến phi thị kiến” – khi thấy được bản thực tướng của cái tháy (tháy tính) thì cái tháy đó không còn có tháy nữa.
Ngài Hàm Sơn nói: “Chân thể pháp thân là nhất tâm chân nguyên, chẳng thuộc mê ngộ, chẳng muơng duyên sinh. Chính cái thiền chân này là chính nhân Phật tính, nên ý tóm kết đây là chuẩn mực để hiểu về chủ rốt ráo”. Nói đến pháp thân là nói đến cội nguồn của tất cả pháp – đó là bản thể của mỗi hiện tượng mà ta đang thấy đây, và cả những gì ta chưa đủ khả năng thấy, cũng như là cội nguồn tự do đó có nghiệp thức của chúng sinh.
Ba Tướng Sai Biệt Của Pháp Thân
Theo học thuyết Thành Duy Thức, pháp thân có ba tướng sai biệt: Tự tính thân, Thọ dụng thân và Biến hóa thân.
Tự tính thân – Tâm của sự bình đẳng
Tự tính thân là pháp giới chân tịnh mà Như Lai đã chứng đắc. Đây là chủ nương bình đẳng của Thọ dụng thân và Biến hóa thân. Thân này vẳng lặng, không có biên tế, lìa tất cả tướng, bất mỗi hỷ luận, là thực tính bình đẳng của tất cả pháp. Theo tam thân, đó chính là pháp thân – chỉ cho thể tính không của vạn pháp.
Tự tính thân này chỉ có công đức vô vị chân thật, lìa mỗi tạp nhiễm, làm chủ nương cho các thiện. Nhưng nó không có tướng dụng sai khác của sắc tâm. Tự tính thân này chính là pháp tính mà kinh Tâm Bát-nhã nói đến tướng không, hay Phật tính nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn, là cái “không” chân như nói trong luận Đại Thừa Khởi Tín.
Thọ dụng thân – Báo thân tự thụ
Thọ dụng thân có hai loại: Tự thọ dụng thân và Tha thọ dụng thân.
Tự thọ dụng thân là thân tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng tứ lượng, vô lượng phước đức, trí tuệ, giúp là làm phát sinh bốn trí Bồ-đề và vô biên công đức chân thật, thành tựu sắc thân rất viên mãn, thanh tịnh, thường hằng biến khắp, tướng tục lặng lặng, cũng tốt đối với vị lai, thường tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn.
Tha thọ dụng thân là thân giúp người thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai do năng lực của bình đẳng tính trí, ở cơi thuần tịnh, thị hiện công đức thanh tịnh vi diệu, vì hàng Bồ-tát Thập Địa mà hiện đại thần thông, chuyển bánh xe pháp, dứt trừ lưới nghi, khiến hàng thọ dụng pháp lạc Đại Thừa.
Báo thân này chính là báo thân được nói trong tam thân, mang đặc điểm rõ nét của sự trang nghiêm vô biên, tương ứng với việc tu tập của các Bồ-tát cao cấp.
Biến hóa thân – Hiển hiện để độ chúng sinh
Biến hóa thân là thân biến hóa ở các cơi. Chư Như Lai, do năng lực của thành sở tác trí, có thể biến hiện ra vô lượng hóa thân theo loại hữu tình, tịnh cơ, uế cơ. Cũng tùy theo cơ nghi của chúng Bồ-tát chưa đẳng Địa, cũng hàng Nhị thừa và một loại Dị sinh mà hiện thần thông nói pháp, khiến hàng đều được lợi lạc.
Biến hóa thân này là hóa thân nói trong tam thân, có khả năng thích ứng với nhu cầu của các loài chúng sinh khác nhau. Đó là một bộ phận vô cùng quan trọng của hoạt động độ thoát của chư Phật.
Nhận Thức Của Chúng Sinh Về Báo Thân Và Biến Hóa Thân
Sở kiến là những gì mà loài hữu tình nhận biết được qua các căn, đó là đối tượng của các căn. Song dùng sở kiến mà không dùng các từ khác như sở nghe là có lý do sâu xa ở mặt tu chứng. Ở đây không bàn tới, chỉ ý các bậc cổ đức mà lấy nghĩa chính là đối tượng của cái tháy.
Sở kiến này, tùy nghiệp thức của từng loại mà có sự không đồng. Như loài người thấy nước là nước nhưng ngạ quỷ lại thấy là lửa hoặc máu. Đó là do nghiệp thức của từng loại mà sở kiến thành khác nhau. Đối với việc thấy Phật cũng vậy, tùy nghiệp thức từng loại mà việc thấy Phật này cũng không đồng.
Sở kiến của phàm phu và Nhị thừa
Luận nói: “Y nơi phân biệt sự thực, gọi là ứng thân. Vì không biết do chuyển thực hiện nên thấy từ ngoài đến. Nhận lấy pháp hạn của sắc nên không thể biết hết”. Phàm phu là chỉ cho người đời. Nhị thừa là chỉ cho Thanh văn và Duyên giác.
Phàm phu thì gần như không ai biết gì về các thức. Nhị thừa thì chỉ mỗi biết đến thức thứ sáu, chưa biết có thức thứ bảy và thứ tám, chưa thấu nghĩa duy tâm sở hiện, không biết các trần chỉ là thức, nên chấp ngoài tâm thật có cảnh giới, thấy thật có Phật Thích Ca với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chấp có sinh tử đáng chán, có Niết-bàn đáng vui, không rõ đạo lý duy tâm.
Nói Y phân biệt sự thực mà thấy là vậy. Phân biệt sự thực là chỉ cho thức thứ sáu. Chuyển thức là do tự tính chân như không tính, bắt giác tâm động mà thành chuyển thức. Thức này, chân vọng hòa hợp. Từ chuyển thức có hiện thức, hiện các cảnh giới (như ngủ rồi mộng). Do chưa thấu được pháp chuyển thức này, không biết mỗi cảnh giới đều do thức biến, nên thấy mỗi thứ thật từ ngoài đến.
Đây chính là cái thấy của đa phần chúng ta hiện nay. Thấy ta, thấy người và thấy mỗi thứ đều có pháp hạn như thật, rồi chấp vào những pháp hạn đó mà hành tác, nên “cũng không thể biết hết”, là không thể tưởng tấn được thực chất của vạn pháp.
Hỏi: Nếu đó là dụng của chân như trong tâm của chúng sinh, vậy thì liên quan gì đến báo thân và hóa thân Phật?
Đáp: Chân tâm của chúng sinh và thể của chư Phật hoàn toàn không có sai khác. Chúng sinh mê chân khởi vọng, nên chân như chỉ hiện nhiễm tướng, chẳng hiện được chân dụng. Cần có bản giác nội huân vọng tâm, mới có thể có chân và cầu, là chân cái khổ sinh tử, cầu cái vui Niết-bàn. Nhờ chân và cầu này mà dụng của chân như được hiện. Chân cầu kém thì tướng dụng thô. Chân cầu dần tăng thì dụng cũng dần tế. Dần dần như thế cho đến nguồn tâm, vô minh hết, thầy giác động với bản giác, dụng lại về thể, bình đẳng bình đẳng.
Trong giai đoạn dụng chân như của chúng sinh chưa thể hiện thì đó là lúc cần có dụng chân như của chư Phật trợ duyên, là lúc Tha thọ dụng thân (báo thân) và Biến hóa thân (hóa thân) của Phật khởi tác dụng. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Dụng chân như là chư Phật Như Lai khi còn tại nhân địa, phát đại từ, tu các ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện muốn độ thoát hết tất cả chúng sinh trong các cơi, không giới hạn kiếp số, đến cùng tận vị lai.”
Mối Liên Hệ Giữa Chân Nhân Và Kết Quả
Quan hệ giữa báo thân và hóa thân của Phật với sở kiến của chúng sinh là một quá trình diễu kỳ của duyên khởi. Chư Phật, trong các kiếp tu tập vô lượng, đã phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sinh. Khi cơ duyên của chúng sinh chín muồi, báo thân và hóa thân của Phật tự nhiên hiển hiện để cứu độ.
Việc chúng sinh thấy Phật khác nhau là do sự khác biệt trong nghiệp thức của từng loại. Như luận Đại Thừa Khởi Tín nói, Phật không có tác ý để tạo ra sự khác biệt này. Đó là dụng của chân như tự động sinh ra từ chân tâm của Phật, tương ứng với chân tâm của chúng sinh. Nó giống như mặt trăng chiếu trong nước – mặt trăng không có ý tự chiếu, nhưng do sự có mặt nước mà tự nhiên hiển hiện hình ảnh.
Tầm Quan Trọng Của Pháp Thân Trong Tu Tập
Hiểu biết về pháp thân không phải chỉ là kiến thức lý thuyết, mà có ý nghĩa sâu xa đối với tu tập thực tế của chúng ta. Khi chúng ta nhận thức được rằng pháp thân là bản chất siêu tối của mọi hiện tượng, khi chúng ta hiểu rằng nó vừa vắng lặng lìa tất cả tướng, vừa hiển hiện vô biên công đức, thì chúng ta có thể dần dần tu tập để làm lộ diện bản chất này.
Tu tập để nhận thức pháp thân là tu tập để thoát khỏi sự chấp thủ các sắc tướng tạm bợ. Là tu tập để tìm về cội nguồn chân thật của tâm mình. Là tu tập để từng bước hiểu được tính chất khó nói, vô biên, vô ngại của tâm tính siêu tối này. Đây là nền tảng của toàn bộ tu tập Phật giáo Đại Thừa.
Lời Kết
Pháp thân của chư Phật là một khái niệm sâu sắc trong Phật giáo Đại Thừa, phản ánh sự hiểu biết cao cấp về bản chất của Phật tính và vũ trụ. Nó không phải là một thân thể vật chất mà chúng ta có thể nhìn thấy, mà là tổng thể của mọi công đức, mọi trí tuệ vô biên vô lượng của chư Phật.
Ba tướng sai biệt của pháp thân – Tự tính thân, Thọ dụng thân và Biến hóa thân – cho chúng ta thấy cách mà chư Phật hoạt động để độ thoát chúng sinh trong các cơi khác nhau. Dù sở kiến của chúng sinh có khác nhau, nhưng tất cả đều là biểu hiện của sự từ bi vô lượng của Phật.
Để tiến bộ trên con đường tu tập, chúng ta cần dần dần nhận thức được chân lý này. Không còn chấp thủ vào các sắc tướng tạm bợ, mà hướng tâm về cội nguồn chân thật. Qua sự tu tập kiên trì, chúng sinh cũng có thể dần dần lộ diện bản chất Phật tính trong lòng mình, và cuối cùng chứng đắc chân quả Bồ-đề.
Tài Liệu Tham Khảo
- Luận Đại Thừa Khởi Tín – Bồ-tát Mã Minh, Chân Hiển Tâm dịch và giải
- Luận Đại Thừa Khởi Tín trực giải – Đại sư Hàm Sơn
- Thành Duy Thức Luận – HT. Thích Thiện Siêu dịch và chú
- Luận Đại Thừa Khởi Tín nghĩa ký – Đại sư Hiển Thủ
- Kinh Lăng Nghiêm
- Kinh Tâm Bát-nhã
- Kinh Đại Bát Niết-bàn