Image default
Hỏi Đáp & Tra Cứu Phật Học

Phật Học Vấn Đáp (Phần 5): Tây Phương Cực Lạc Tinh Độ Và Duy Tâm Thực Chứng

Lời Phật dạy về Tây Phương Cực Lạc không phải là mơ mộng hư huyễn, mà là một chân lý vô tương. Vậy làm thế nào để tâm chúng ta được ở trạng thái tịnh độ, vượt khỏi những phiền naõ của thế gian này? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải tìm hiểu rõ ràng về mối quan hệ giữa Tây Phương Cực Lạc, duy tâm Tịnh Độ, và con đường tu tập thực chứng của những người tin Phật.

Phương Pháp Tịnh Độ Như Phá

Hỏi: Người niệm Phật muốn cho tâm mình đừng thọ lãnh ngoài cảnh, phải làm thế nào?

Trả lời: Phải tả ngộ các pháp không thật có, các pháp không thật thể, các pháp do nhân duyên hội hợp mà thành.

Hiểu Rõ Vị Trí Của Tây Phương Cực Lạc

Tây Phương là ý chỉ phương vị của người sở ở

Tịnh Độ là một cõi, một nước, một quốc độ của Phật A Di Đà. Tây Phương là ý nói cõi Tịnh Độ ở phương Tây. Vũ trụ mênh mông vô hạn, một cõi ở ngoài trái Đất này, đâu có nhất định đông, tây, nam, bắc; tại sao lại nói ở phương Tây?

Ông nên hiểu rằng Đức Phật Thích Ca xưa ở thành Xá Vệ, nói kinh Tây Phương dẫn hóa, cái phương hướng ấy là do địa điểm của xứ ấn độ, theo hướng Tây mà phàng tới, trải qua mười vạn ức cõi Phật.

Phật dùng hướng Tây của xứ ấn độ là mphương tiện chỉ giáo, chẳng đã trải qua mười vạn ức cõi Phật, mà nói phương hướng là một chuyên thừa.

Tây Phương Cực Lạc - cõi Phật A Di Đà thanh tịnh vô cựcTây Phương Cực Lạc – cõi Phật A Di Đà thanh tịnh vô cực

Tây Phương là phương tiện và duy tâm Tịnh Độ là chân lý

Vậy thì cõi Tịnh Độ ở nhắm về phương tây của xứ ấn độ mà ngưới ta quen miệng gọi là Tây Phương? Phải! Đó là một phương tiện chỉ giáo đối với người tu hành có nhiều căn cơ trình độ bất động. Nếu lấy theo tâm pháp mà nói, thì lòng mình là cõi Tịnh độ, lựa là phải cầu đi đâu.

Tịnh độ ở lòng mình, điều này tôi sẽ hỏi sau. Hiện thời tôi muốn biết trước những điều xác thật, không mờ huyền, không huyễn bí. Vậy xin ông cho biết: Cõi Tịnh Độ mà Đức Phật A Di Đà lập ra đó có thật chăng? Có thể dùng khoa học chứng chắc được không?

Trả lời: Cõi Tịnh Độ có thật chứ không phải giả dối. Hiện nay khoa học chỉ biết những tinh cầu hữu hình thôi, còn vô số tinh cầu vô hình nói theo khoa học là tinh cầu chưa thành hình còn trong vòng bí mặt, chưa thành hình đối với giới khoa học ngày nay. Tịnh Độ là một thế giới vô hình chứ không có gì lạ. Ngày nay nhân loại trên mặt địa cầu còn đủ sức lập một thế giới, huởng chi thần thông của Phật, mà không lập được một thế giới hay sao?

Trong kinh A Di Đà tả cảnh Tây Phương có nói rằng: “Cõi này cũng có chim kêu, sen mở, đất vàng, cây bảu, ngày đêm sáu thời, v.v…” thế thì cõi Tây Phương là một cõi hữu hình, một trái đất đã thành, chẳng đâu phải một đỉa cầu chưa thành hình như ông đã nói đó.

Tại ông hiểu lầm kinh Di Đà, tức là hiểu lầm chủ dụng ý của Phật, nên mới nói cõi Tây Phương có chim kêu, sen mở, đất vàng, cây bảu, v.v… Đó là những lời thí dụ về tâm pháp.

Từ xưa tới nay có nhiều người hiểu lầm như vậy, nên đời vua Khang Hy bên Trung Hoa, năm Canh Thân, có sáu chục vị sa môn ở chùa Từ Vân, tỉnh Chiết Giang, đồng ý cùng nhau soạn lời chú giải kinh Di Đà, chỉ rõ những thí dụ như: Bảy lớp hàng rào lan can là báy điều rằn, bảy lớp lưới là thí dụ bảy đức tính tu tập của hàng Bồ tát, bảy hàng cây là bảy môn bổ đạo, v.v… Ông thử nghĩ: những người vãng sinh là những người đã bỏ xác phàm, họ thuộc về vô hình, mà nói Tịnh Độ là hữu hình, thật không gì mâu thuẫn bằng.

Duy Tâm Tịnh Độ – Chân Lý Sâu Xa Của Phật Pháp

Tịnh Độ là lòng sáng suốt thanh tịnh

Nói vô hình là đối với chúng sinh mắt thịt lòng phàm cho dễ hiểu, chẳng đối với con mắt huệ thì không có gì là vô hình. Cõi Tây Phương cũng vậy, nói vô hình cũng được, nói hữu hình cũng chẳng phải không trúng.

Khi vào kinh Duy Ma Cật, Phật nói với Bồ Tát Bữu Tích như vậy: “Nay Bữu Tích! Cõi của các loại chúng sinh, tức là cõi của chư Phật, của chư Bồ tát. Vì sao? Vì báy Bồ tát hay tuỳ theo chủ giáo hoá tất cả chúng sinh mà chứng lấy cõi Phật. Tuỳ theo căn cơ trình độ của tất cả chúng sinh, mở ra các phương tiện để dẫn dắt chúng sinh nhập vào trí huệ Phật, ấy là chứng lấy cõi Phật. Tuỳ theo căn cơ trình độ của chúng sinh, mà dùng các phương tiện khai thị đẳng nhập vào căn trí Bồ tát, đó là chứng lấy cõi Phật.”

Vì sao? Sở dĩ Bồ tát chứng được cõi thanh tịnh, là vì lợi ích cho chúng sinh vậy. Thí dụ như người kia muốn kiến trúc một ngôi nhà, cần phải có miếng đất trống và nền móng vững vàng, khi ấy khởi công mới không có vật gì là làm chướng ngại. Nhưng cũng chẳng phải kiến trúc chẳng không mà được. Báy Bồ tát cũng thế, vì muốn thành tựu cho chúng sinh mà nguyện chứng cõi Phật. Muốn chứng cõi Phật chẳng phải là tìm đến chỗn xa xăm thanh vắng hay là chỗ không không (chỗ hư vô tích diệt) mà thành công được.

Chân tâm sáng suốt là bản chất của Tịnh ĐộChân tâm sáng suốt là bản chất của Tịnh Độ

Nay Bữu Tích! Ông phải biết rằng lòng thẳng là Tịnh Độ của Bồ tát. Bởi vậy cho nên khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có lòng thẳng, đều sinh về cõi ấy.

Nay Bữu Tích! Lòng sâu dẫy là Tịnh Độ của Bồ tát. Bởi vậy cho nên khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có công đức đầy đủ đều sinh về cõi ấy.

Nay Bữu Tích! Tâm Đại thừa là Tịnh Độ của Bồ tát. Bởi vậy cho nên khi Bồ tát thành Phật, thì những chúng sinh nào đủ căn trí Đại thừa đều sinh về cõi ấy. Nhân đẻ, trì giới, nhân nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ là Tịnh Độ của Bồ tát. Tứ vô lượng tâm là Tịnh Độ của Bồ tát. Tứ nhiếp pháp là Tịnh Độ của Bồ tát. Phương tiện là Tịnh Độ của Bồ tát. Ba mươi bảy đạo phẩm là Tịnh Độ của Bồ tát. Lòng hồi hướng là Tịnh Độ của Bồ tát. Mười điều là nh là Tịnh Độ của Bồ tát.

Nay Bữu Tích! Như thế thì ông biết rằng, Bồ tát theo lòng thẳng mà khởi hành, theo chỗ khởi hành mà được tâm sâu dẫy, theo cái lòng sâu dẫy mới điều phục được ý thức. Theo ý thức đã điều phục mới y theo lời nói mà tu hành, mà hồi hướng, tuỳ chỗ hồi hướng mà bày ra các phương tiện. Theo các phương tiện mới thành tựu đẳng chúng sinh, theo chỗ thành tựu của chúng sinh, tức là cõi Phật thanh tịnh, theo chỗ nói pháp thanh tịnh thì trí huệ thanh tịnh. Theo trí huệ thanh tịnh thì tâm cũng tịnh, tuỳ theo cái tâm tịnh thì tất cả công đức đều được thanh tịnh.

Bởi vậy cho nên, Bữu Tích này! Bồ tát muốn được cõi Tịnh Độ, thì phải tịnh cái tâm của mình, theo chỗ tịnh tâm ấy, tức là cõi Tịnh Độ của Phật vậy.

Con Đường Tu Tập Chứng Tịnh Độ

Đã nói tâm trong sách của mình là Tịnh Độ, thế thì cứ chỉ ngay cái giáo lý “Duy tâm Tịnh Độ” chẳng được sao, lại phải nhắc công đức Phật A Di Đà lập ra cõi Tịnh Độ, để dẫn dắt chúng sinh về đó tu thêm, chung quy rồi cũng phải chứng lấy tâm tính của mình?

Tôi xin lặp lại một lần nữa rằng, Tịnh Độ tổng thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, căn cơ trình độ dầu cao hay thấp cũng đều tu được cả. Ông cao, ông tu cầu duy tâm Tịnh Độ; tôi thấp, tôi tu cầu vãng sinh Tây Phương, đến chẳng rốt rã rồi cũng y nhau. Nhưng, chưa chắc ông được trọn vẹn thành công như tôi. Bởi tôi nhờ tự lực vã Phật lực, còn ông chỉ nhờ tự lực mà thôi.

Căn Cơ Tu Tập Và Vãng Sinh Tịnh Độ

Người Tu Tập Cần Nhờ Lực Phật

Người niệm Phật nhờ năng lực của Phật giúp đỡ, tỷ như người muốn đi buôn, nhờ đại phú ông giúp vốn lập kỹ sinh nhai. Còn người không nhờ Phật lực, cũng như kẻ bạch thủ (tay trắng) quyết chí là làm giàu mà không có ai giúp vốn.

Như thế thì biết rằng cái khó và dễ của hai đẳng thầy rõ rệt.

Người niệm Phật chứng được cõi Tịnh Độ nơi tâm với người tá ngộ Niết bàn tại thế, hai đẳng khác hay chẳng khác? Trả lời: Không khác.

Nghĩa là chẳng khác ấy như thế nào?

Người tu hành chứng được cõi Tịnh Độ nơi tâm, tức là người kiến tính chẳng có gì lạ. Kiến tính tức là thấy được bồ đề diều minh chân tâm. Cái chân tâm này là cõi Tịnh Độ (Duy tâm Tịnh Độ).

Còn người tá ngộ Niết bàn tại thế, cũng tức là người tá ngộ bồ đề diều minh chân tâm. Lý tính của bồ đề diều minh chân tâm, cũng như lý tính của Niết bàn. Lý tính của Niết bàn cũng như lý tính của duy tâm Tịnh Độ.

Thể tính của Niết bàn, thể tính của duy tâm Tịnh Độ là cảnh giới của những báy minh tâm kiến tính.

Tháy thì cái lý “Duy tâm Tịnh Độ” và cái lý “Minh tâm kiến tính” là đồng nhau?

Phải! Đồng nhau. Duy tâm Tịnh Độ và minh tâm kiến tính, kẻ mê cho là khác, người ngộ thấy chẳng khác.

Xin ông giải thích chẳng Đồng nghĩa lý ấy?

Duy tâm Tịnh Độ chẳng sinh chẳng diệt, thì chân tâm cũng chẳng sinh chẳng diệt.

Duy tâm Tịnh Độ có đủ các công đức, thì chân tâm cũng có đủ các tính đức.

Duy tâm Tịnh Độ không có ba đường ác, thì chân tâm cũng không có ba độc (tham, sân, si).

Duy tâm Tịnh Độ vắng lặng và sáng tỏ, thì chân tâm cũng thường tích và quang chiếu, v.v…

Nói tóm lại, Duy tâm Tịnh Độ làm sao thì chân tâm làm vậy. Bởi thế cho nên, chứng được cõi Tịnh Độ tức là chứng được chân tâm, chứng được chân tâm tức là chứng được Niết bàn (Tự tính thanh tịnh Niết bàn).

Phương Tiện Tu Tập Toàn Diện

Lý Thuyết Về Nhân Duyên Tu Tập

Đã nói tâm trong sách của mình là Tịnh Độ, thế thì cứ chỉ ngay cái giáo lý “Duy tâm Tịnh Độ” chẳng được sao, lại phải nhắc công đức Phật A Di Đà lập ra cõi Tịnh Độ, để dẫn dắt chúng sinh về đó tu thêm, chung quy rồi cũng phải chứng lấy tâm tính của mình?

Tôi xin lặp lại một lần nữa rằng, Tịnh Độ tổng thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, căn cơ trình độ dầu cao hay thấp cũng đều tu được cả. Ông cao, ông tu cầu duy tâm Tịnh Độ; tôi thấp, tôi tu cầu vãng sinh Tây Phương, đến chẳng rốt rã rồi cũng y nhau. Nhưng, chưa chắc ông được trọn vẹn thành công như tôi. Bởi tôi nhờ tự lực và Phật lực, còn ông chỉ nhờ tự lực mà thôi.

Niệm Phật - con đường thanh tịnh của tâm linhNiệm Phật – con đường thanh tịnh của tâm linh

Trong kinh Vị Tạng Hữu, Phật có nói:

“Hãy quán pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, và mười hai nhân duyên trói buộc đường sinh tử, năo luân hồi. Hãy tu pháp Tứ diệu Đế… thực hành sâu pháp ba la mật và tứ vô lượng tâm. Tất cả những cái pháp ấy dùng là làm phương tiện mà điều phục các căn. Nếu điều phục được các căn, thì ‘định huệ’ được thành tựu. Hơn định huệ mà được thành tựu thì lòng mình được ngay thẳng, nếu lòng mình ngay thẳng thì hay sinh tinh tấn. Do tâm tinh tấn, nên sinh lòng giữ giới, do sự giữ giới tinh nghiêm thì định huệ sáng tỏ. Hơn định huệ sáng tỏ thì làm đủ muốn hành thông suốt, không có cái gì làm chướng ngại. Nếu đã không có cái gì làm cho mình ngăn ngại được, thì gọi là giải thoát. Cái tâm giải thoát ấy là cảnh giới Niết bàn (là tâm Bồ đề)” vậy.

Chỉ có tu luyện về tâm pháp Đại thừa Bồ tát, mở rộng trí huệ quang minh mới thâu gồm ba mươi bảy đạo phẩm. Trong kinh Vị Tạng Hữu có nói:

“Trước hết phải học rộng các pháp nói về nhân duyên. Nếu hiểu rõ được nhân duyên* thì cái Đức tin của mình mới được kiên cố. Hơn gốc tin mà được đứng vững rồi, thì lẽ cơ nhiên hay khởi ra cái lòng tinh tấn. Do năng lực của tâm đại trí huệ, nên thâu nhiếp được tất cả ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là đạo Bồ đề)” vậy.

Người niệm Phật muốn cho tâm mình đừng thọ lãnh ngoài cảnh, phải làm thế nào?

Phải tả ngộ các pháp không thật có, các pháp không thật thể, các pháp do nhân duyên hội hợp mà thành…

Xin cho một thí dụ đẳng biết rằng các pháp do nhân duyên hội hợp mà thành?

Cũng như chiếc xe hơi được làm nên do nhiều môn, nào là bánh xe, nhíp xe, thùng, mui, đinh ốc, vải nằm, máy móc, v.v… hiệp lại thành một chiếc xe hơi. Nếu tách riêng ra từng bộ phận ngồn ngang một đường, thì không có môn nào khả dĩ gọi là cái xe cả.

Phân tích thêm một lần nữa: như bánh xe, cũng không có gì đáng gọi bánh xe, nếu người ta tháo rồi vỽ ruột, tháo tung mầm niêm.

Phân tích thêm một lần nữa, cũng không tháy cái gì đáng gọi là niêm xe, nếu người ta bỏ vô lò luyện kim nấu cho sắt chảy ra. Cho đến sắt cũng không thật có nữa, nếu người ta phân tích ra nhiều phân tử và nguyên tố. Đến một ngày kia khoa học tiến bộ, phân tích được nguyên tố, thì vật vật không có gì hết, bởi vật chất do nguyên tố tạo thành. Vì lẽ ấy, Phật cho vạn sự, vạn vật đều là giả, là không thật có, chỉ giả danh mà thôi.

Không cần phân tích làm chi cho khó hiểu, bất cứ sắt đá cây cỏ chi, để lâu cũng mục, sẻt, tan rã, không có vật nào bất diệt.

Một cái bánh xe phân tích ra nhiều lần, đến chẳng không chẳng có gì hết, thì các bộ phận khác như thùng xe, nhíp xe, mui nằm, v.v… cũng y như vậy, cũng không không chẳng có gì hết. Đem một chiếc xe và các bộ phận mà thí dụ như thế, thì biết rằng vạn sự, vạn vật trong vũ trụ này, môn nào, sự nào cũng là giả, do nhân duyên hiệp thành.

Tự Tâm Tịnh Độ Và Phật Pháp

Ứng Dụng Lý Thuyết Vào Thực Tập

Nói muốn vật là giả, không thật có, bởi do nhân duyên tạo thành, điều này tôi nhờ sự phân tích theo phương pháp khoa học nên mau tả ngộ. Còn như nói muốn sự là giả nữa, xin giải thích thêm cho rõ ràng?

Sự thường sự ghét, sự vui sự buồn, sự có sự không, sự phải sự quẩy, sự giàu sự nghèo, v.v… không có môn nào là thật cả. Chẳng qua do ảnh hưởng của muốn vật, của tưởng tưởng, của nhân duyên mà tạo thành.

Ví dụ như ông đang xem hát gặp cảnh buồn, lòng ông cũng tuỳ theo sự Đó ng trò khéo léo ấy mà quên rằng cảnh giả, nên ông cũng rơi lệ như hầu hết khán giả khác. Cái cảnh buồn ấy, chẳng phải bỡng dung mà có, phải đủ đạo kép, phải đủ vai tương, phải đủ cảnh ngộ, nào là sơn thượ, nào là thầy tương, nào là sân khấu, nào là âm nhạc, nào son phấn, v.v… nếu phân tích những môn trên đây, ở đâu về đó, thì không có môn nào khả dĩ đáng gọi là cảnh buồn cả.

Sự đối cũng vậy, có khác nào trên sân khấu diễn trò đâu. Những cảnh ly hiệp bi hoan, những sự hận thua còn mặt, v.v… đều do nhiều nguyên nhân tạo thành. Nếu phân tích cái nhân, thì cái nhân ấy cũng không có gì đáng gọi là nhân cả. Đó là chưa nói tới cái luật tương đối của vạn hữu, hơn có sự thường thì có sự ghét, có sự vui thì có sự buồn…

Sở dĩ chúng sinh còn có cái lòng thường ghét, giận hờn, phải quẩy, nên hư, đố kỵ, v.v… là tại chúng sinh không tả ngộ được muốn sự, muốn vật là giả, là do nhân duyên, chẳng thật.

Người tu hành thường tham thiền quán tưởng, thấu triệt được chân lý của muốn sự, muốn vật như trên đây, thì gọi là chứng lý, gọi là giác ngộ.

Đức Lục Tổ Huệ Năng giảng giải như thế nào mà học trò của Ngài đều tả ngộ Tây Phương tại lòng mình?

Đức Lục Tổ nói:

“Muốn quy hướng về Phật, thì phải theo trong tính của mình mà làm, chẳng có chạy theo ngoài thân mà tìm cầu. Tính của mình bằng mê tức là chúng sinh, còn tính của mình biết giác ngộ tức là Phật. Lòng từ bi là Quan Âm, lòng hộ xả là Thế Chí, lòng trong sáng tức là Thích Ca, lòng bình trực tức Di Đà.

Nếu còn có cái lòng nhân ngã bả thế đó là nơi Tu di, lòng tạ là biển nước, phiền naõ là sông dòng, độc hại là cá trăn nhất, lòng giả dối là quỉ thần, lòng tham sân là địa ngục,

Related posts

Làm Sao Để Dung Hòa Giữa Đạo và Đời?

Administrator

Bộ-tát Tâm và Bộ-đó: Cân Bằng Giữa Độ Người và Tự Độ

Administrator

Yêu Thương Vô Lượng Là Nền Tảng Của Giác Ngộ

Administrator