Image default
Phật Học Ứng Dụng

Tất Cả Chúng Sanh Vốn Dĩ Là Phật

Kinh Hoa Nghiêm vạch rõ một chân lý sâu sắc: “Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, hiện tại vẫn là Phật.” Nhưng tại sao chúng ta lại không nhận ra mình chính là Phật? Câu trả lời nằm ở ba thứ phủ phiến lên sự hiểu biết của chúng ta: vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước. Khi thoát khỏi ba phiền não này, bạn không khác gì Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật hay bất kỳ vị Phật nào—trí tuệ, đức năng, tương hảo đều bình đẳng hoàn toàn.

Không lâu trước đây, một vị đồng tu đã đặt câu hỏi khó cho tôi: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Tôi đã gợi ý với vị này một cách trả lời cho những người tương tự. Nếu gặp câu hỏi đó lần nữa, hãy nói: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều.” Họ sẽ hỏi ở đâu. Lúc đó, chúng ta có thể khẳng định: “Bạn chính là Phật, tôi cũng vậy, tất cả chúng sanh mỗi một đều là Phật.” Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, hiện tại vẫn là Phật. Chẳng qua hiện tại, bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên biến thành như vậy. Nếu buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bạn cũng Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật Như Lai, Tứ Lô Già Na Phật—không hề khác nhau.”

Nhận Diện Ba Phiền Não Chính

Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là ba mầm mọc của tất cả phiền não. Những khái niệm này không dễ hiểu sau vài giờ thiền định. Thực tế, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là vô lượng vô biên. Trong quá trình học tập, chúng ta cần dùng phương tiện để quy nạp những điều phức tạp này, phân loại chúng dựa trên kinh điển để dễ nắm bắt. Nhưng muốn chân thật hiểu biết, phải thực hành. Nếu chính mình không chứng thực, sự việc này vĩnh viễn không thể giải thoát, nhất là vọng tưởng của chúng ta đã quen rồi—khỏi tâm động niệm thì gọi là vọng tưởng.

Đối lập với vọng là chân thật. Vọng chính là không thật. Do đó, kinh điển Phật pháp nói “Bất tương ứng thật viết vọng”—không tương ứng với sự thật, đó là vọng. Vậy “thật” là gì? Việc này không dễ hiểu. Nếu bạn hiểu chữ “thật” thì bạn chính là pháp thân Bồ tát. Nói chung, “thật” là thật tưởng của các pháp mà Đại thừa giáo dạy. Khi giảng giải, chúng ta dùng lời nói rõ ràng để mọi người dễ hiểu. Tôi thường nói “Chân tương của vũ trụ nhân sinh”—câu nói này cũng rất chung chung. Nếu tỏ mở hơn một chút là “Bản thể của vũ trụ,” “Hiện tượng của vũ trụ,” “Tác dụng của vũ trụ,” đó chính là nói từ trên “Thể – Tương – Dụng” mà dạy.

Chân lý Phật giáo: Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật nên chỉ cần buông bỏ vọng tưởngChân lý Phật giáo: Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật nên chỉ cần buông bỏ vọng tưởng

Thế Giới Chúng Sanh Và Tác Dụng Nhân Quả

Vũ trụ không có bề mép, trong đó vô lượng vô biên. Khoa học hiện đại gọi thế giới là tinh hệ. Hiện nay chúng ta cư trú trên Địa cầu, mọi người đều hiểu rõ, nó chỉ là một hành tinh nhỏ trong thái không. Nó cũng có một tinh hệ, tinh hệ này mọi người đều quen thuộc—Thái Dương Hệ có chín hành tinh lớn xoay quanh Thái Dương, chúng vận hành trên quỹ đạo nhất định. Tuy nhiên Thái Dương cũng không bất động, Thái Dương là động. Nó mang theo một quần thể, một tinh hệ như vậy rồi lại xoay vòng một tinh hệ lớn hơn. Tinh hệ lớn này hiện đại được khoa học phát hiện là hệ ngân hà. Hệ ngân hà liệu có đang xoay quanh một tinh hệ lớn hơn đang hoạt động nữa không? Chưa có người phát hiện. Thế nhưng, trong Phật pháp nói, địch thực còn có tinh hệ lớn hơn.

Năm xưa cơ sở Hoàng Niệm Tổ đã nói với tôi vấn đề này, chúng ta gọi là “Tam thiên đại thiên thế giới” hay “Mười phương cõi nước chỉ Phật.” Kinh Hoa Nghiêm nói đến thế giới Hoa Tạng, thế giới Thành Tựu phẩm, chúng ta cũng đã học qua. Hoàng lão cơ sở cho rằng hệ ngân hà là một đơn vị thế giới mà kinh Phật nói. Việc này chúng ta chưa hề nghĩ đến. Ngày xưa, tôi cho rằng đơn vị thế giới là Thái Dương Hệ, nhưng trên kinh Phật nói đơn vị thế giới được tính bằng đơn vị “thiên,” đại khái trên dưới 1000. Một tinh hệ như vậy gọi là tiểu thiên thế giới, tập hợp 1000 tiểu thiên thế giới thì gọi là trung thiên thế giới, sau đó lại tập hợp 1000 trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giới. Cơ bản mà nói, đại thiên thế giới chính là giáo khu của một vị Phật.

Chẳng hạn, Thích Ca Mâu Ni Phật đã giáo hóa một khu vực trong đó có tiểu thiên, trung thiên, đại thiên, hợp lại gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Đại thiên thế giới tuyệt nhiên không chỉ có ba ngàn, nhiều người đặc biệt sai lầm ở điểm này. Ba ngàn chỉ nói lên kết cấu của đại thiên thế giới. Thế giới Ta Bà của chúng ta là một đại thiên thế giới. Thế giới Cực lạc rộng lớn hơn rất nhiều lần so với đại thiên thế giới này của chúng ta. Ở thế giới Hoa Tạng tổng cộng có 20 tầng, như một tòa lầu lớn, thế giới Cực lạc cũng thế giới Ta Bà của chúng ta đều ở tầng thứ 13. Một tầng chính là một đại tinh hệ. Do đó từ kinh Hoa Nghiêm có thể khẳng định, hệ ngân hà của chúng ta trong thái không cũng chỉ là một điểm nhỏ. Nó nhiều quanh một tinh hệ rất lớn đang chuyển động mà khoa học gia hiện nay vẫn chưa phát hiện. Vậy 20 tầng thế giới Hoa Tạng, kinh gọi là thế giới hải. Ngay trong vũ trụ vô cùng vô tận, số lượng rất nhiều.

Cấu Trúc Tâm Thức Và Thế Giới Hiện Tượng

Thế giới này từ đâu mà có? Mỗi một thế giới đều có chúng sanh cư ngụ. Hình tưởng chúng sanh cũng khác nhau, một số chúng ta có thể nhìn thấy bằng mắt thịt, còn lại thì mười pháp giới y chính trang nghiêm sum la vạn tưởng. Rốt cuộc thế nào, tương lai đến đâu? Vấn đề rất phức tạp, không phải là lý tưởng hay phán đoán mà chân tương của nó chính là thật tương các pháp trên kinh Bát Nhã đã nói. Đối với thực tương các pháp, bạn thấy đều tương tận, một chút cũng không được sai lầm, chính mắt nhìn thấy, địch thân tiếp xúc, đó mới gọi là thật, không phải vọng. Còn nếu không biết chút gì, trong lòng bạn phán đoán thì ở nơi tưởng tượng đó toàn là vọng tưởng, vọng tưởng vô số vô tận. Kinh Lăng Nghiêm, Phật nói một cụm từ rất hay: “tất cả chúng sanh.”

Quyển thứ nhất của kinh Lăng Nghiêm: “tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay.” “Tất cả chúng sanh” bao gồm khắp pháp giới hữu giới, không giới, không ngoại lệ chúng sanh trong các cõi nước, “từ vô thủy đến nay, sanh tử tiếp nối đều do không biết chân tâm thường trụ, tính tỉnh minh thể, dùng các vọng tưởng. Do tưởng không thật, nên có luân chuyển.” Những câu này nếu chúng ta nói tỉ mở hai giờ đồng hồ có thể vẫn không đủ. Tạm thời, “Phàm Thánh thị ý đồ” là phương thức đơn giản hiện thị ra cho các bạn. Vọng tưởng trong kinh Đại thừa, nhiều chủ ngữ gọi là vô minh. Vô minh chính là không tương tận. Bạn vốn dĩ tương tận, cho nên nói bạn vốn dĩ là Phật. Không tương tận thì gọi là vô minh, vọng tưởng. Có phải bạn thường hay hoài nghi, thường hay nghi ngờ, đó toàn là vọng tưởng. Do đó có rất nhiều cách nói vô minh.

Kinh Hoa Nghiêm ghi rõ: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tưởng Như Lai.” Đức là đức năng, ngôn ngữ hiện tại gọi là năng lực, tài nghệ. Tương hảo ý nói đến phước báu của mỗi chúng sanh. Xem qua Tịnh Độ ba kinh, phước báu của Phật A Di Đà thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân Ngài có vô lượng tưởng, tương có vô lượng về đẹp, không chỉ 32 tưởng 80 về đẹp, như vậy vẫn còn quá ít. Báo thân Như Lai có 32 tưởng 80 về đẹp là do Thế Tôn vì chúng ta giới thiệu, để chúng ta liền biết đó là chính mình. Thiền sư Trung Phong nói rất hay “Tâm ta tức Phật A Di Đà, Phật A Di Đà tức là tâm ta,” vì sao? Phật A Di Đà do tâm ta biến hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến.” Kinh thường nói “Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm.” Bạn phải hiểu hai câu nói này, thế giới nhỏ, thế giới lớn, biến pháp giới hữu giới, không giới cũng giống như cảnh giới trong mơ. Mỗi một đồng tu chúng ta đều có kinh nghiệm năm mơ. Sau khi năm mơ tỉnh lại, bạn cố gắng nghĩ về cảnh giới trong mơ vừa rồi, nó từ đâu mà có. Thực ra, nó do chính tâm bạn biến hiện ra. Khi tâm bạn năm mơ, tâm của bạn chính là mơ, hiện ra cảnh mơ. Như vậy, cả thảy cảnh trong mơ chính là tâm của bạn.

Đại sư Vĩnh Gia nói “Trong mơ rõ ràng có sáu cõi, tỉnh mơ rồi trông không cả đại thiên.” Thiền sư Trung Phong nói “Tâm ta tức là Phật A Di Đà, tâm ta chính là thế giới Cực lạc,” tác mơ, Phật A Di Đà chính là tâm ta, thế giới Cực lạc cũng chính là tâm ta. Tâm ta biến hiện ra, vậy hiện tại Địa cầu này của chúng ta, Thái Dương Hệ này của chúng ta, hệ ngân hà này của chúng ta, xem thấy xum la vạn tượng. Nếu sau khi giác ngộ, bạn sẽ biết đó là chính ta, do tâm ta biến hiện. Chân tâm hiện, vọng tâm biến, bao gồm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Tâm hiện thức biến, bạn bỡng chốc ngộ ra không. Khi vừa tỉnh ngủ thì cả thảy vũ trụ là chính mình, vô số chúng sanh là chính mình, cả thảy trên Địa cầu bao gồm tất cả người, sự vật, tất cả sinh vật cũng đồng một thể sinh mạng với ta. Sau khi ngộ, bạn sẽ có cách nhìn khác đối với tất cả chúng sanh, sẽ rất thân thiết. Tâm từ bi tự nhiên liền sẽ phát sanh, “Từ bi biến pháp giới, thiện ý khắp nhân gian.” Chân thật sau khi ngộ ra, cảnh giới của bạn so với khi còn mê hoặc hoàn toàn không như nhau, vậy có phải đã phá được vô minh chưa? Chưa. Làm gì đơn giản như vậy. Vô minh, phân biệt, chấp trước mới chỉ giảm nhẹ đi một chút.

Các vị phải biết, phân biệt cũng vọng tưởng thuộc về pháp chấp. Chấp trước thuộc về ngã chấp. Ngã chấp là phiền não chướng, pháp chấp là sở tri chướng. Hai loại chướng ngại là làm cho trí tuệ, đức năng, tương hảo của chúng ta thấy đều bị chướng ngại theo. Do đó Phật dạy chúng ta tu hành là tu cái gì, là phá hai loại chấp trước này. Có rất nhiều kinh điển, bạn phải tỉ mở lãnh hội, làm gì không có chủ ngữ. Mỗi bộ kinh bạn vừa lật ra, nếu chân thật khế nhập thì thấy đều có chủ ngữ. Hiện tại vì sao không có chủ ngữ? Vì khi bạn đọc kinh, hàm hộ lướt qua, sơ sài qua loa, không tỉ mở quan sát, thỏ hỏi. Trong Tạng Kinh Lầu thấy được “Đại bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, mười đại thiên thế giới vi trần kệ, một bản thiên hạ vi trần phẩm.” Lời nói này của Bồ tát Long Thọ là thật, bạn phải nghe hiểu. “Mười đại thiên thế giới vi trần kệ” không phải là chữ số. Hoa Nghiêm dùng mười để biểu thị, đại biểu đại viên mãn, có nghĩa, biến pháp giới hữu giới, không giới, tính, tưởng, lý, sự, nhân quả, có thứ gì không phải là kinh Hoa Nghiêm? Kinh Hoa Nghiêm sống ngay trước mặt chúng ta. Thiện Tài Đồng Tử may mắn gặp được 53 vị thiện tri thức, còn chúng ta thì sao? Từ sớm đến tối không hề kém Thiện Tài, nhưng vì sao không khai ngộ? Vì tâm bạn không phải tâm của Thiện Tài, nếu là tâm của Thiện Tài thì bạn đã sớm khai ngộ. Do đó phiền não của chúng ta là thật, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nặng.

Ứng Dụng Thực Hành Và Giác Ngộ

Vọng tưởng, thông thường trong Đại thừa giáo đã nói, “vô minh phiền não,” “trần sa phiền não,” “kiến tứ phiền não.” Thiền Tái Tông cũng nói, vô minh phiền não chính là vọng tưởng trong kinh Hoa Nghiêm. Trần sa phiền não chính là phân biệt. Kiến tứ phiền não chính là chấp trước. Ở đây, có phiền não, có sở tri chướng, chỉ là nặng nhẹ không như nhau. Trong vô minh, sở tri chướng nhiều, phiền não chướng ít. Trong phân biệt, sở tri chướng cũng phiền não chướng có thể bằng nhau. Trong chấp trước, sở tri chướng nhẹ, phiền não chướng nặng. Do đó vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều có sở tri chướng, đều có phiền não chướng, vô minh. Trên kinh Hoa Nghiêm, vọng tưởng thuộc về căn bản vô minh. Đại kinh nói, “một niệm bất giác mà có vô minh,” đó là nói ban đầu, vì sao bạn bị mê? Vấn đề này trong Đại thừa giáo gọi là “căn bản Đại vấn.” Ta vốn dĩ là Phật, nhưng vì sao ta khởi một niệm vô minh, lúc nào khởi lên một niệm vô minh, và nguyên nhân gì khởi lên nó?

Khi chúng tôi mới học Phật có gặp vấn đề này, tôi liền hỏi lão sư Lý. Lão sư Lý nghe rồi mỉm cười không trả lời cho chúng tôi, vì sao? Trả lời cũng không hiểu, vẫn không bằng không trả lời. Ông bảo chúng tôi xem kinh Lăng Nghiêm. Ồ! Trong quyển thứ tư của kinh Lăng Nghiêm, thì ra Phổ Lâu Na tôn giả cũng có vấn đề tương tự, ngài hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni vì sao hay khởi lên niệm này, và bao lâu mới khởi lên một niệm. Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn rất dài, rất nhiều người đọc kinh Lăng Nghiêm nhưng có mấy người hiểu được. Nếu thật hiểu thì bạn liền thành Phật, còn chưa thật hiểu thì vẫn là phàm phu.

Trước tiên bạn phải nhận biết đó là vọng, vọng là giả, “một niệm bất giác” là hữu vọng. Chi chính là khác trong vọng lý giải, nhất là vọng tưởng của chúng ta đã quen rồi, khỏi tâm động niệm thì gọi là vọng tưởng. Nếu bạn hỏi mê từ lúc nào, kinh Hoa Nghiêm nói thời gian: “Niệm kiếp viên dung,” niệm là một niệm, kiếp là đơn vị thời gian rất dài. Một niệm cũng vô lượng kiếp không khác biệt, vì một niệm là vọng, vô lượng kiếp cũng là vọng. Một niệm bằng như không, vô lượng kiếp cũng bằng như không. Không cũng không phải chẳng đều vọng? Sau khi hiểu rõ, chúng ta hơi có chút thỏ hỏi. Thì ra sự việc này không có trước sau, không có xa gần, ngay nơi đó một niệm bất giác cũng giống như trong mơ tỉnh lại. Khi tỉnh lại thì gọi là thành Phật. Vốn dĩ là Phật, vừa vào mơ, trong mơ liền rơi vào mười pháp giới. Bạn ở trong mơ là làm Bồ tát, là làm Phật là pháp giới bốn thắng; bạn ở trong mơ là làm trời là làm người là pháp giới trời người; bạn ở trong mơ gặp được ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục thì là pháp giới ba đường, không rơi ngay trong một niệm. Đó là chân tương sự thật, thế nhưng ngày trước thầy giáo không nói ra, vì sao?

Vì sau khi nói, là làm cho cửa ngủ của bạn bị bí mật. Đó là cách dạy học rất tân khác, do đó thiền tông nhất định không nói, mà khuyến báo bạn chính mình chứng. Chính bạn sau khi ngộ đem cảnh giới này nói lại với lão sư. Lúc đó là lão sư gật đầu ấn chứng cho bạn. Bạn chưa vào được cảnh giới này thì tuyệt đối không nên nêu ra. Điểm này đặc biệt không giống giáo hạ. Giáo hạ luôn nói ra, sau khi nói, bạn chính mình phải chứng thật. Nếu không chứng thật, như vậy bạn vẫn đang ở trong mơ, chưa tỉnh ra được. Do đó, bạn cần phải thân chứng, vậy thân chứng bằng cách nào?

Thân chứng bằng cách tu tập thực hành. Khi tu tập, bạn phải hết sức gìn giữ năm giới, tu hành tám điều cẩn thận, tinh tấn trong thiền định, trí tuệ minh mẫn, tu những hạnh này theo các tông phái Phật giáo. Một khi ngộ được pháp tính, bạn sẽ chứng được những gì kinh điển đã dạy. Nếu bạn chưa ngộ, những lời dạy trong kinh chỉ là kiến thức lý thuyết, chưa phải là trực tiếp chứng được. Vấn đề này rất rõ ràng, nhưng bao nhiêu người thực sự hiểu được? Rất ít. Hầu hết mọi người học Phật chỉ để tăng thêm kiến thức, chưa phải để khai ngộ tánh lý, để trực chứng pháp tính của riêng mình.


Kinh Hoa Nghiêm vạch tỏ rằng Phật tính vốn sẵn trong mọi chúng sanh. Để tỏ ngộ Phật tính này, chúng ta cần buông bỏ ba phiền não chính: vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đây là những chướng ngại khiến trí tuệ, đức năng tự có của chúng ta bị che phủ. Khi thực hành tu tập chân chính, vận dụng pháp môn và niệm lực, tâm chúng ta sẽ dần dần sáng suốt, những che phủ sẽ lần lượt sụt giảm. Lúc bấy giờ, sự khác biệt giữa chúng ta và Phật sẽ tiêu tan, và chúng ta sẽ thấu rõ rằng mình vốn dĩ chính là Phật. Đó không phải là một thành tựu xa vời, mà là khám phá lại bản tính sơ sinh đã có sẵn. Kinh điển dạy, lý thuyết chỉ là bản đ

Related posts

Lời Phật Dạy Về Luyện Ái Dục: Dẫn Dắt Tâm Hướng Về Giải Thoát

Administrator

Tại Sao Con Người Có Thể Tái Sinh Làm Thú Vật?

Administrator

Suy Niệm Lời Phật: Giữ Tâm Như Chăn Trâu

Administrator