Thiền sư Pháp Loa (1248-1330), tên tục là Dương Kiên Cường, là vị tiếp pháp thứ hai của dòng Trúc Lâm – một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ mười ba và mười bốn. Cuộc đời tu học của ông là minh chứng sáng chói cho sự kế tục giáo pháp sau Trúc Lâm và sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Việt Nam thời Trần. Với 26 năm tu tập và 23 năm lãnh đạo giáo hội, Pháp Loa đã để lại di sản Phật học và công trình trí tuệ vô cùng quý báu cho nền Phật giáo nước nhà.
Quá Trình Xuất Gia và Tu Học Theo Trúc Lâm
Pháp Loa sinh năm 1248 trong một gia đình có truyền thống Phật giáo. Khi còn nhỏ, ông đã tỏ ra thông minh, lém lỏi và có khí chất khác thường. Năm 1304, khi Pháp Loa được 21 tuổi, ông gặp Trúc Lâm đang du hành các miền thôn quê. Ông được xin phép xuất gia và Trúc Lâm gửi ông học hỏi với Hòa thượng Tính Giác tại Quỳnh Quán. Lúc này, Trúc Lâm đặt cho ông tên là Thiền Lai. Sau một thời gian tu học, ông đặc biệt có sự buộc bức trong việc sâu sắc lĩnh ngộ giáo pháp – lúc đó ông vừa mới đọc đến đoạn A Nan hỏi Phật về tính chất của tâm trong kinh Lăng Nghiêm mà thấy có chỗ sở hữu.
Một hôm, Pháp Loa vâng tham Trúc Lâm, gặp lúc Trúc Lâm đang thẳng đường cử bài tụng Thái Dương Ô Kề, thì trong tâm chợt tỉnh. Trúc Lâm biết liền bảo đi theo bên mình. Một hôm khác, Pháp Loa trình Trúc Lâm một bài tụng về “tam yếu” bị Trúc Lâm gạch một gạch dài từ trên xuống dưới. Bốn lần thỉnh cầu, Trúc Lâm vẫn không chỉ giáo, bảo về tự mình tham khảo. Đêm đó, Pháp Loa về phòng nơi lực thiền quán. Quá nửa đêm, nhận thấy hoa đèn rỡi rạng, ông bèn đại ngộ. Liền đem chỗ sở hữu ấy lên trình lên Trúc Lâm và được ấn chứng. Từ đó ông phát nguyện tu theo 12 hạnh đầu đó, bắt chước Trúc Lâm.
Trúc Lâm Thiền Sư hướng dẫn Pháp Loa tu học Phật pháp tại chùa Bảo Ân thế kỷ 14 Việt Nam
Năm 1305, Pháp Loa được Trúc Lâm cho thỏ giới Tứ Khanh và Bồ Tát, được hiệu là Pháp Loa. Năm 1306, ông được lập làm giảng chủ chùa Bảo Ân. Năm 1307, cùng với 6 vị đệ tử khác của Trúc Lâm, ông được Trúc Lâm dạy cho bộ Đại Tuệ Ngữ Lục trên am Quán Trử. Tháng năm năm đó, trên am Định Trử, vào ngày rằm, ông được Trúc Lâm trao y bát và tâm kề. Như vậy ông được đắc pháp chỉ sau hơn 3 năm tu học – một thời gian tương đối ngắn so với tiêu chuẩn tu tập thời bấy giờ.
Mùng một tết năm Mậu Thân (1308), Pháp Loa được chính thức làm trụ trì chùa Bảo Ân tại Siêu Loại, và được giao cho chức vụ Tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm. Năm đó nhà nước cũng cho chùa 100 mẫu ruộng và cấp người cây để lấy hoa lợi cho chùa. Sự ủng hộ này là dấu hiệu cho thấy vua Trần Anh Tông đã nhận thức được tầm quan trọng của giáo hội Trúc Lâm trong đời sống tâm linh của quốc gia.
Đại Tạng Kinh Triều Trần – Công Trình Vô Cùng Hoành Tráng
Công trình đáng kể nhất của Pháp Loa là sự quản lý việc khắc bản Đại Tạng Kinh lần thứ nhất tại Việt Nam. Tháng hai năm Ất Mùi (1295), có sứ nhà Nguyên là Tiêu Thái Đằng sang. Khi Thái Đằng về, vua Anh Tông cho nội viên ngoại lang là Trần Khắc Dung và Phạm Thảo cùng đi theo, với mục đích là thỉnh một bản Đại Tạng Kinh mới nhất của Trung Hoa.
Bản Đại Tạng Kinh được thỉnh về này là kết quả của công trình thực hiện trong khoảng từ năm 1278 tới năm 1294 tại chùa Phổ Minh ở Hàng Châu, gồm có 1.422 mục, 6.010 quyển, đông lại trong 587 tập. Đây là bản Đại Tạng Kinh đầu tiên được thực hiện dưới triều Nguyên. Tiêu Thái Đằng qua Việt Nam năm 1295, vừa lúc bản này mới được thực hiện xong chưa một năm. Có lẽ là Trúc Lâm đã nói với vua Anh Tông về bản Đại Tạng Kinh này nên vua mới ra lệnh cho hai người đi theo về Tàu để thỉnh cho được một bộ.
Công việc khắc bản gồi Đại Tạng Kinh đã tiến hành trong bao lâu? Ta chỉ thấy nói vào tháng chạp năm Kỷ Mùi (1319), tăng sĩ vĩ cơ sĩ cùng hiến máu in một Đại Tạng Kinh trên 5.000 quyển để an trí tại chùa Quỳnh Lâm. Chính Pháp Loa đã kêu gọi việc hiến máu này. Như vậy, công việc khắc bản đã hoàn thành vào năm 1319 – thời gian khắc bản là 24 năm, kể cả ba năm công việc bị giãn đoạn. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng ghi năm 1329, Pháp Loa lại cho in Đại Tạng Kinh. Bản Đại Tạng Kinh được thực hiện tại kinh đô Việt Nam do Bảo Phát chủ trương, tương đối ngắn hơn bản 1294 của nhà Nguyên.
Chắc chắn là không có chùa nào hồi đó đủ sức một mình tự làm công trình này. Bảo Phát chắc hẳn đã thực hiện bản này với sự ủng hộ tân lực của triều đình, và dưới quyền thiền sư chắc chắn có hàng trăm người viết chữ và có hàng trăm người khắc bản. Hai mươi năm trời đã được để ra để thực hiện bản này – thời gian này có thể gọi là ngắn ngủi. Rất tiếc ta không còn giữ lại được một bản gốc nào hoặc một quyển kinh nào để có thể đánh giá được kỹ thuật in loát thời đó.
Tác Phẩm và Chủ Trương Giáo Lý của Pháp Loa
Pháp Loa cũng có chủ giải nhiều kinh điển, sáng tác nhiều sách giáo khoa Phật học và biên tập nhiều nghi thức. Những tác phẩm của thiền sư hầu hết đã được đưa vào trong Đại Tạng nhà Trần. Sau đây là những sách của ông làm:
-
Thạch Thật Mị Ngữ Niệm Tụng – Những lưỡng nhận xét và những bài kề tụng viết về tác phẩm Thạch Thật Mị Ngữ của Trúc Lâm.
-
Tham Thiền Yếu Chỉ – Soạn năm 1322 theo lời yêu cầu của thượng hoàng Minh Tông. Đây là sách Thiền Đạo Yếu Học mà ta còn giữ lại một phần dưới tên nhan đề khác.
-
Kim Cương Trường Đà La Ni Kinh Khoa Chú – Phân tích và chú giải kinh Kim Cương Trường Đà La Ni.
-
Pháp Hoa Kinh Khoa Sớ – Phân tích và luận giải kinh Pháp Hoa.
-
Lăng Già Kinh Khoa Sớ – Phân tích và luận giải kinh Lăng Già.
-
Bát Nhã Tâm Kinh Khoa Sớ – Phân tích và luận giải Tâm Kinh Bát Nhã.
-
Pháp Sư Khoa Văn – Về các nghi thức và sớ điệp dùng trong những lễ Phật Giáo.
-
Độ Môn Trợ Thành Tập – Các nghi thức về cúng đàn chân tế.
-
Nhân Vương Hộ Quốc Nghi Quỹ – Soạn riêng cho vua Minh Tông dùng.
-
Tuyệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục – Biên tập những thiền ngữ và thi tụng của Tuyệ Trung.
Các sách khoa sớ 3, 4, 5 và 6 là những sách giáo khoa Phật học. Những tác phẩm trên đều thất lạc, duy có tác phẩm Tham Thiền Yếu Chỉ, chỉ được giữ lại một phần in dưới đầu đề là Thiền Đạo Yếu Học, thấy đặt năm sau phần lịch sử của Pháp Loa trong Sách Tam Tổ Thực Lục. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng có nói rằng chính thiền sư Pháp Loa đã để lời Bát cho Đại Tạng Kinh đời Trần. Bài Bát này viết vào năm 1321. Tám tác phẩm đầu của Pháp Loa đều được khắc và in năm 1323. Riêng tác phẩm thứ 9 soạn theo lời vua Anh Tông để vua dùng hàng ngày.
Phát Triển Giáo Hội Trúc Lâm Dưới Quyền Lãnh Đạo của Pháp Loa
Số lượng tăng sĩ gia nhập giáo hội Trúc Lâm cơ ngày cơ đông. Tháng chín năm Quý Sửu (1313), Pháp Loa phong chiếu đến cơ trú tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, đặt văn phòng trung ương của giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sơ tổng tích. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tăng sĩ có hệ sơ tại Giáo hội Trung Ương. Pháp Loa thấy số lượng tăng sĩ đông quá liên quyết định ba năm mới có một lần độ tăng. Giới đàn ba năm được tự chức một lần và mỗi lần số người xin thụ giới bị thải ra có đến hàng nghìn người.
Tính đến năm 1329, số tăng sĩ được xuất gia trong những giới đàn do giáo hội Trúc Lâm tự chức dưới quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị. Về tự viện, năm 1313 có tới trên 100 ngôi chùa thuộc vào giáo hội Trúc Lâm (một số sách ghi có hơn 800 ngôi chùa). Pháp Loa làm rất nhiều việc xây dựng. Tại chùa Bảo Ân, năm 1314 ông đã xây dựng được 5 cây Bảo thập, hai cơ sở hành đạo lớn (Quỳnh Lâm và Bảo Ân) và trên 200 tăng đường.
Vua Anh Tông nhân ngày lên làm Thái Thượng Hoàng đã cho dúc tượng đồng ba vị Phật Di Đà, Thích Ca và Di Lạc, mỗi tượng cao 17 thước ta. Có thể nói là bất động sản cũng cung vào cho giáo hội, phần lớn là những người có quyền thế và giàu có trong triều.
Mối Quan Hệ Giữa Anh Tông và Pháp Loa – Tâm Thức Vua Nhân Dân
Vua Anh Tông đối với Pháp Loa thường cung kính xưng là đệ tử. Sau khi thụ tại gia Bồ Tát Giới, Anh Tông rất thao thục muốn làm trọn bốn phần của một ông vua hộ pháp. Năm 1311, Anh Tông giao cho Pháp Loa trách nhiệm tục san Đại Tạng Kinh – một công trình Phật sự lớn lao mà nếu nhà nước không tích cực ủng hộ thì giáo hội Trúc Lâm ít có cơ hội thực hiện nơi này. Anh Tông cũng đã từng thỉnh mời Pháp Loa vào cung Từ Phúc giảng Đại Tuệ Ngữ Lục (1312) và vào cung Thiền Trường để giảng Truyền Đằng Lục (1318).
Năm 1318, vua đã bắt đầu ăn chay. Sách Đại Việt Sử Kỷ Toàn Thư chép: “Bây giờ thượng hoàng có ý muốn xuất gia, bảo cung nhân ăn chay. Cung nhân có người ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Điền châm ngón tay để dâng. Thượng hoàng ngộ khen, ban cho 40 mẫu ruộng để làm lương ăn tu hành sau này. Sau Nguyễn Thị Điền quả nhiên xuất gia hiệu là ni sư Tĩnh Quang”.
Năm 1320, vua Anh Tông được Pháp Loa làm lễ quán định – một nghi thức Mật Giáo. Những chi tiết trên cho biết là Anh Tông thực tâm tin đạo Phật và rất quý trọng Pháp Loa. Khi Anh Tông sắp bằng, Bảo Tử hoàng thái hậu cho người đi mời Phổ Tuệ Tôn Giả tới làm phép quán định và lập đàn chay cầu nguyện. Phổ Tuệ xin vào để tơ bảy sự sống chết. Anh Tông sai trả lời rằng: “Nhà sư hãy ở đây, khi ta chết rồi, quan gia (tức là vua Minh Tông) có sai làm thế nào thì nhà sư tự làm, còn như việc sau thì nhà sư cũng chưa chết, biết đâu mà đem việc chết bảy tơ với ta”. Đại Việt Sử Kỷ Toàn Thư chép như vậy, sợ là lầm. Anh Tông đối với Pháp Loa thường cung kính xưng là đệ tử.
Tư Tưởng Thiền Học và Giáo Lý của Pháp Loa
Những tác phẩm của Pháp Loa để lại ngày nay không còn, duy chỉ có một phần của sách Tham Thiền Yếu Chỉ còn giữ lại dưới nhan đề Thiền Đạo Yếu Học, in trong sách Tam Tổ Thực Lục ngay sau phần nói về đời Pháp Loa. Xét nội dung và nhất là lời ghi chú phía sau, ta có thể nói Thiền Đạo Yếu Học là chính do Pháp Loa viết.
Thiền Đạo Yếu Học là một tập mỏng, gồm có những bài sau: (1) Lời khuyến lẻ kẻ xuất gia tinh tấn hành đạo; (2) Kể lại một buổi khai đường đại tham của Trúc Lâm năm 1304; (3) Lời khuyến cáo đại chúng về tam học của thượng thừa; (4) Yếu thuyết về đại thừa; (5) Phải am tương học thuật.
Trong lời khuyến lẻ kẻ xuất gia tinh tấn hành đạo, Pháp Loa có nói về việc tìm thấy học đạo, phân biệt chân ngụy và thiện ác. Trong bài “Kể lại một buổi khai đường đại tham của Trúc Lâm năm 1304”, Pháp Loa chỉ thuật lại những lời của Trúc Lâm khai thị đại chúng về tự tính thanh tịnh sẵn có của mỗi người và ghi lại vài mẫu vấn đáp ngắn giữa Trúc Lâm và môn đệ.
Bài lời khuyến cáo đại chúng về Tam Học của Thượng Thừa có thể nói là tư tưởng của Pháp Loa về Thiền học. Bài “Phải Am Tương Học Thuật” nói về nhu yếu phải học trước khi hành đạo và những điều thiết yếu thực tiễn trong đời thu đạo: chọn bạn tốt để thân cận, học kinh pháp tìm nơi thu học thuận lợi.
Mặc dù nhấn mạnh đến nhu yếu tìm học kinh điển nhưng Pháp Loa vẫn không quên đặt vấn đề kiến tính lên hàng đầu. Và theo đúng truyền thống Tuyệ Trung, ông đặt vấn đề kiến tính trên căn bản “Không chủ thể không đối tượng”:
“Người học Phật phải chú trọng trước hết đến vấn đề kiến tính (thấy được bản tính mình). Thế nào gọi là thấy tính? Thấy đây là thấy cái không thể thấy. Cho nên thấy được cái thấy-không-thấy tức là chân tính hiện ra. Cái thấy về thể tính vốn vô sinh cho nên không có sự phát sinh của cái thấy ấy. Tính cách thức hữu của Tính chính cũng là không, nhưng cái thấy chân thực lại không thay đổi, cho nên nói là thấy tính một cách chân thực”.
Pháp Loa chỉ bảy phương pháp thực tiễn nhiếp tâm giữ ý (gọi là tĩnh giới) như sau:
“Thế nào là tĩnh giới? Là trong 24 tiếng động hộ một ngày, các điều kiện ngoại cảnh không dẫy động, các điều kiện nội tâm không lung lay. Tâm không lung lay, thì cảnh đạt tới trạng thái như như. Nhãn căn (mắt) không phải vì đối tượng mà hướng ra ngoài, nhãn thức (cái thấy) không phải vì đối tượng sớ duyên mà hướng vào bên trong. Ý thức được rằng ra vào không giao tiếp liên hệ cho nên đạt được trạng thái điều chế ngưng chỉ. Tuy gọi là điều chế ngưng chỉ mà không phải là bất động. Đối với các thứ khác như nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng vậy. Đó gọi là Đại Thừa Giới, là Vô Thượng Giới, và Vô Đẳng giới”.
Về phương pháp tham cứu thoại đầu, Pháp Loa dặn dò:
“Tham thoại đầu thì chủ để giản đoạn, phải nên tham cứu liên tục không xen kẽ một ý niệm nào khác. Giữ đường để nghiêng ngả, không trạo cự cũng không hôn tráp, hoạt bát như ngục lên bàn thạch, sáng sủa như gương chiếu trên đài. Đạt đến chỗ đó thì đi cũng vậy mà đứng cũng vậy, ngồi cũng vậy mà nằm cũng vậy, nói cũng vậy mà lặng thinh cũng vậy, không lúc nào mà không ở trong trạng thái thiền. Như vậy mới giải phẫu tam cú, tam huyền, tam yếu, ngũ vị, tìm hiểu tự liễu giản, tự tín chủ, tự chiếu dương và những điểm thiết yếu khác của các vị thiền tú”.
Những Tác Phẩm Văn Học Còn Lại
Pháp Loa có làm rất đông đề tử. Trong số trên 15.000 người xuất gia trong các giới đàn của giáo hội Trúc Lâm tự chức, có tới hơn 3.000 vị tới cầu pháp và đắc pháp với ông. Những vị đề tử làm giảng sư nổi danh là Tuyệ Nhiên, Tuyệ Chức, Hải Ấn, Hoàng Tế và Huyền Giác. Ngoài ra các vị đề tử xuất sắc khác là Quế Đường, Cảnh Ngung, Cảnh Huy và Tuyệ Quán.
Huyền Quang là đề tử xuất gia với Bảo Phát, có học với Trúc Lâm nhưng cũng cầu pháp với Pháp Loa. Huyền Quang là người rất giỏi về chủ nghĩa thi văn: ông có nhiệm vụ khảo duyệt và nhân sắc mỗi văn kiến quan trọng, nhất là những bản văn cần đc ấn hành. Chính đoạn tiểu sử Pháp Loa trong sách Tam Tổ Thực Lục mà Trung Minh biên tập đã do ông hiệu khảo trước khi cho khắc bản.
Mặc dù nhân nhiều tác phẩm của Pháp Loa để lại ngày nay không còn, duy chỉ có một vài bài thơ và ký tụng còn tìm thấy. Bài ca tụng Tuyệ Trung của Pháp Loa có thể gọi là ngắn gọn và hay nhất trong những bài khác cùng ca