Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Tính Bình Đẳng của Bát Kính Pháp: Nền Tảng Tâm Linh của Phật Giáo

Từ xưa đến nay, các nhà tư tưởng, triết gia luôn tìm kiếm một cơ sở lý luận vững chắc cho tinh thần bình đẳng. Nhưng chỉ có Đức Phật mới đem lại triết lý bình đẳng đích thực cho nhân loại – một bình đẳng tuyệt đối không chỉ giữa người và người, mà còn giữa tất cả chúng sinh với nhau. Tại sao Đức Phật lại cho nữ giới xuất gia? Bởi vì Ngài thấy rõ rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính và có khả năng giác ngộ. Đây chính là nền tảng vững chắc nhất về thực tính bình đẳng và tinh thần bình đẳng của Phật giáo, là kim chỉ nam để Đức Phật cử xử với tất cả chúng sinh nói chung và nữ giới nói riêng.

Cơ Sở Lý Luận của Tinh Thần Bình Đẳng

Bình đẳng là vấn đề lớn của nhân loại, được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, từ xưa đến nay chưa có ai thiết lập được cơ sở lý luận vững chắc cho tinh thần bình đẳng, cũng như chưa có ai thật sự thực thi tinh thần bình đẳng một cách trọn vẹn. Hơn nữa, các khía cạnh của bình đẳng mà họ quan tâm thường phiến diện và không rõ ràng.

Đến khi Đức Phật ra đời, Ngài đã mang lại triết lý về tinh thần bình đẳng thật sự cho nhân loại. Từ Điển Phật học Huệ Quang định nghĩa: “Bình đẳng là ngang bằng đồng đều, không cao thấp, căn sâu. Chỉ tất cả hiện tượng đều cùng một tính: Không tính, Duy thức tính hay Chân như tính… Đối với chúng sinh cũng phải xem đồng đẳng, không cao thấp, oán thân, đáng được thương xót ngang nhau và có đủ Phật tính như nhau.”

Theo lời Phật dạy trong kinh Phạm vương, kinh Niết-bàn, “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” là lời tuyên bố chắc thật, phát xuất từ tương giác tới thường, mang tính nhân văn với ý nghĩa cao nhất của Đức Thế Tôn về giá trị chân thật của tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng.

Con người thật trong mỗi người, Phật tính thanh tịnh của mỗi chúng sinh là như nhau chính là cơ sở lý luận vững chắc nhất cho sự bình đẳng tuyệt đối không chỉ giữa người và người, mà còn giữa tất cả mỗi loài chúng sinh với nhau. Đây cũng là một đóng góp vô giá của triết lý Phật giáo cho văn hóa nhân loại đã được Liên Hợp Quốc công nhận.

Các nữ tu tại chùa tu hành và học tập theo giáo pháp PhậtCác nữ tu tại chùa tu hành và học tập theo giáo pháp Phật

Tinh Thần Bình Đẳng trong Kinh Điển Phật Giáo

Tinh thần bình đẳng còn thể hiện rõ trong kinh Từ bi: “Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lạc… Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.”

Kinh Tiền dân (Nipata) câu 136 là một minh chứng cụ thể về tinh thần bình đẳng: “Không ai sinh ra là Tiền dân, không ai sinh ra là Bà-la-môn. Do hành vi mà con người thành Tiền dân, do hành vi mà con người thành Bà-la-môn.”

Tinh thần giải thoát giác ngộ bình đẳng, không phân biệt nam nữ cũng được thể hiện rõ trong kinh Thắng Man. Thắng Man phụ nhân, do đã tu nhiều đời và nương oai thần lực của Phật mà nói lên từ tưởng Đại thừa nhất phương tiện và bà còn được Phật thứ ký sẽ thành Phật trong tương lai. Điều này khiến ta liên tưởng đến Long Nữ trong kinh Pháp hoa, Thiện Tài Đồng tử trong kinh Hoa nghiêm, thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt đối.

Lời Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật.” Đức Phật khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành.” Lời chân thật này của Đức Phật đã được hiện thực hóa ngay khi Ngài còn tại thế, là những ai, bất luận ở và vào hạng nào, dù đó là ngoài đạo, ác nhân, tà kiến, bần tiền, ngu dốt…, nếu biết tin tưởng theo lời Phật dạy mà nỗ lực hành trì thì đều được giác ngộ giải thoát.

Thầy Tỷ kheo và các tỷ kheo ni trong buổi truyền giớiThầy Tỷ kheo và các tỷ kheo ni trong buổi truyền giới

Bát Kính Pháp và Vấn Đề Nam Nữ Bình Đẳng

Những vị Tỷ kheo thường tục để từ Phật tu hành đắc quả như các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên…; Tỷ kheo-ni như Ma-ha Ba-xá-ba-Đề, Liên Hoa Sắc…; thậm chí đến như Đề-bà-Đạt-Đa có ác tâm hại Phật, thái tử A-xà-thế giết cha hại mẹ, chàng Vô Nãy nghe lời ngoài đạo giết người lấy đủ 100 ngón tay, nàng Ma-Đăng-già hại A-nan…; cuối cùng tất cả đều được Phật độ và được giải thoát.

Kinh Tương Ưng chép rằng, Đức Thiền Thế thấy vua Pasenadi nước Kosala không được hoan hỷ, khi biết hoàng hậu Malliká đã sinh hạ một người con gái, ngay lúc ấy nàng lên tiếng bài kệ giảng giải về vấn đề nam nữ bình đẳng: “Này Nhân chủ, ở đời/ Có một số thiếu nữ/ Có thể tốt đẹp hơn/ So sánh với con trai…”

Trong xã hội văn minh hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, xu hướng vận động kêu gọi nam nữ bình quyền xuất hiện khoảng trên dưới một thế kỷ nay. Phong trào này ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều tầng lớp trong xã hội, kể cả Ni giới Phật giáo trên toàn thế giới. Một trong những vấn đề tồn nhiều bút mực nhất là Bát kính pháp dành cho Ni giới.

Đôi tu sĩ nữ cầu nguyện trong chùa chiều tốiĐôi tu sĩ nữ cầu nguyện trong chùa chiều tối

Lịch Sử và Ý Nghĩa của Bát Kính Pháp

Báp kinh nói về sự thiết lập Ni Đoàn và Bát kính pháp được tìm thấy trong Kinh tạng (Tăng chi, kinh Mahāpajāpati Gotamī) và Luật tạng của Phật giáo hệ Pāli, lên vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Kinh Hán tạng tương đương là Cù-Đàm-di (Trung A-hàm, số 116). Các truyền thống Phật giáo căn cứ vào nguồn tài liệu này để xác định rằng chính bà Ma-ha Ba-xá-ba-Đề, kế mẫu của Đức Phật, là người đại diện xin Phật cho nữ giới xuất gia.

Đức Phật đã chế Bát kính pháp, tóm lược như sau:

  1. Tỷ kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ túc nơi Tỷ kheo.
  2. Tỷ kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỷ kheo.
  3. Nếu nơi trú xứ không có Tỷ kheo thì Tỷ kheo-ni không được thọ hạ an cư.
  4. Tỷ kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đợi trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự kiến, thấy, nghe và nghi.
  5. Nếu Tỷ kheo không cho phép thừa hội thì Tỷ kheo-ni không được thừa hội.
  6. Tỷ kheo-ni không được nói điều trái pháp của Tỷ kheo.
  7. Tỷ kheo-ni nếu phạm Tăng-già-ba-thi-sa thì phải đợi trước hai bộ chúng hành bất mãn.
  8. Tỷ kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối với trước Tỷ kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu là làm lễ.

Tinh Thần Cốt Yếu của Bát Kính Pháp

Tinh thần cốt yếu của Bát kính pháp chính là giúp nữ giới tiêu trừ ngã chấp, đạt đến vô ngã. Trong ý nghĩa này, tâm đã vô ngã thì không có tương hữu ngã nào có thể chướng ngại. Nếu các vị Tỷ kheo-ni đều suy nghĩ nhân thật rằng, tất cả mỗi khổ đau đều do tâm chấp ngã mà ra, Bát kính pháp giúp ta dập bỏ cái ngã không thật ấy.

Nếu ta chân thật tu hành, hướng tới vô ngã giác ngộ giải thoát thì Bát kính pháp đâu có trở ngại gì! Đơn cử như Sư bà Hải Triều Âm, bậc hiện đức thường thấy trong hàng Ni giới đương đại, có công đức không nhỏ trong việc hoằng dương Chính pháp, được cả Tăng Ni kính quý, suốt đời cần trọng gìn giữ Bát kính pháp không chút lơi là, huơng nửa dâm bác bộ.

Thật vậy, đối với những người có tâm chấp ngã, có tâm phân biệt thì Bát kính pháp đang trở ngại cho ngã chấp của họ, họ sẽ thấy Bát kính pháp là không thật bình đẳng, không do Phật chế. Nhiều người quan tâm đến vấn đề Bát kính pháp. Rất mong những bậc cao tăng thạc đức quan tâm đến vấn đề này với thần trọng tối đa, dùng Tam pháp ấn, Tựy tất Đạn, Tựy y chiếu soi để nhận diện rõ bản chất chân thật của Bát kính pháp do Đức Phật từ bi ân cần chỉ dạy cho Ni giới, nhằm xây dựng tinh thần hòa hợp Tăng – Ni như pháp, góp phần xiển dương Chính pháp tại thế gian.

Các nữ tu sĩ thực hiện nghi thức tôn kính ba nguyệt ba bộ kinhCác nữ tu sĩ thực hiện nghi thức tôn kính ba nguyệt ba bộ kinh

Bình Đẳng Tuyệt Đối trong Giáo Lý Phật Đà

Những mỗi loài chúng sinh có căn cơ, tư chất, nghiệp chướng khác nhau, Đức Phật tùy theo những đối tượng khác nhau ấy mà có phương pháp giáo hóa thích hợp, cốt sao lợi ích và hiệu quả nhất trên tiến trình hướng đến giác ngộ, giải thoát. Bát kính pháp và những giới luật dành cho Ni giới vẫn không ngoài mục đích này.

Mỗi Đắc Tám Điều Đức Phật dạy cho những người nữ thật tâm mong muốn xuất gia, đừng là để có cảm giác trung nam khinh nữ, nhất là dưới lăng kính xã hội học trong xã hội hiện đại ngày nay với xu hướng nam nữ bình đẳng.

Con người thật trong mỗi người, Phật tính thanh tịnh của mỗi chúng sinh là như nhau. Vì vậy, mỗi quan hệ giữa người và người là một quan hệ tuyệt đối bình đẳng, không có người cao thượng hay hèn hạ vì phân biệt giai cấp, không có tôn ti vì phân biệt nam nữ. Cao thượng hay hèn hạ là do hành vi, suy nghĩ của con người chứ không do giai cấp. Tư tưởng bình đẳng trong đạo Phật dạy con người phá bỏ sự phân chia giai cấp.

Điều này thể hiện bằng bậc trong kinh điển, và chính Đức Phật hiện thực hóa triết lý này trong việc độ người xuất gia và sinh hoạt trong Tăng Đoàn. Tinh thần bình đẳng của Đức Phật được kế thừa và phát huy ở Phật hoàng Trần Nhân Tông, với sự mong mỏi tất cả con dân Đại Việt đều là Thích Ca, Di Lặc.

Quan niệm Phật và chúng sinh hoàn toàn bình đẳng, đều có cùng bộ mặt thật với “nét mày ngang, đường mũi dứt” thật là hiếm thấy trong thời cổ trung đại, thời kỳ mà ý thức hệ phong kiến với các thế lực siêu nhiên chi phối bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Những lực lượng bất khả xâm phạm này được nhận thức là đấng siêu nhiên, bậc bộ trên của con người. Thời kỳ này ngay cả vua của một nước lớn như Trung Quốc cũng chỉ dám xưng là Thiên tử (con trời), chiếu chỉ vua ban đều phải mở đầu bằng câu Phụng Thiên thừa vận (tuân theo mệnh trời), nhưng ở đây Tuệ Trung dám công nhiên khẳng định Phật và tất cả chúng sinh bình đẳng như nhau.

Cái nhìn thấu triệt thực tướng của vạn pháp vượt không gian, thời gian này là cơ sở vững chắc, mang tính nhân văn với ý nghĩa cao nhất, siêu việt thời đại về sự bình đẳng tuyệt đối không chỉ giữa người và người mà còn giữa mỗi chúng sinh với Phật, Trời, Thần, Thánh. Ý nghĩa lớn về triết lý bình đẳng do Đức Phật giác ngộ ra là một giá trị tinh thần vô cùng cần thiết mà con người trong thời đại văn minh của chúng ta vẫn cần suy ngẫm.

Ứng Dụng Thực Tiễn Bát Kính Pháp trong Tu Học

Để hiểu đúng bản chất của Bát kính pháp, chúng ta cần nhận thức rằng các giới luật này không phải để áp đặt sự phân biệt, mà là để giúp tu sĩ nữ loại trừ tâm chấp ngã và các vẫn đề tinh thần mà các vị có thể gặp phải. Những ai tu tập với tâm chân thành, hướng đến giác ngộ và giải thoát thì sẽ thấy Bát kính pháp không phải là trở ngại mà là con đường hướng dẫn.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam chứng minh rằng những nữ tu sĩ kính trọng và thực hành Bát kính pháp đã đạt được những thành tựu tu tập cao siêu. Họ không cảm thấy bị áp chế bởi các giới luật này, bởi vì họ đã vượt qua tâm chấp ngã, hiểu rõ rằng mọi thứ chỉ là phương tiện giáo hóa để hướng tâm về vô ngã, về Phật tính.

Vấn đề không nằm ở Bát kính pháp hay bất kỳ giới luật nào, mà nằm ở tâm của người tu tập. Khi tâm đã vô ngã, không còn tâm phân biệt, thì không có bất kỳ giới luật nào có thể trở ngại cho tu học. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Bát kính pháp mà các bậc cao tăng cần giúp cho những người có tâm muốn xuất gia nhận thức được.

Kết Luận

Bát kính pháp là một biểu hiện của tinh thần bình đẳng tuyệt đối trong Phật giáo. Đức Phật cho nữ giới xuất gia vì Ngài nhận thức sâu sắc rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng giác ngộ và giải thoát. Các giới luật này không phải để gây khác biệt, mà để giúp nữ tu sĩ tu tập một cách toàn diện và an toàn.

Tinh thần bình đẳng của Phật giáo vượt xa những khái niệm bình đẳng trong xã hội thế gian. Nó là sự công nhận rằng mọi chúng sinh đều bình đẳng trong khả năng đạt được giác ngộ. Duy chỉ tâm chấp ngã, tâm phân biệt mới là bức tường cản trở sự tu học. Khi tâm chân thành hướng về vô ngã, thì Bát kính pháp sẽ trở thành kim chỉ nam quý báu trên con đường tu tập.

Những vấn đề xung quanh Bát kính pháp cần được các bậc cao tăng xem xét kỹ lưỡng với sự cảnh tỉnh và hiểu biết sâu sắc. Mục đích của Phật giáo là giúp tất cả chúng sinh, không phân biệt nam hay nữ, vượt qua khổ đau và đạt đến giác ngộ. Đây là thông điệp chân thật mà tinh thần bình đẳng của Bát kính pháp muốn truyền tải đến chúng ta.


Tham Khảo Kinh Điển:

  • Kinh Phạm Vương (Brahajala Sutra)
  • Kinh Niết-bàn (Parinirvana Sutra)
  • Kinh Tiền Dân (Nipata)
  • Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya)
  • Kinh Từ Bi (Metta Sutta)
  • Trung A-hàm (Madhyama Agama)

Related posts

Vì Sao Sinh Ra Con Cái Khó Dạy? Sáng Tỏ Nhân Duyên Kiếp Trước Qua Lời Phật

Administrator

Phẩm Làm Việc Gì Phải Xét Kỹ Hậu Quả – Bài Học Nhân Quả Từ Kinh Điển

Administrator

Tứ Tương Trung Đạo Qua Bát Bất

Administrator