Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Tinh Tấn Tu Tập: Con Đường Giải Thoát Theo Lời Dạy của Đức Phật

Trong cuộc sống hiện đại, khi con người luôn bị thôi thúc bởi những cám dỗ vô tận, Phật giáo đã chỉ ra một chân lý sâu sắc: để đạt được an lạc thật sự, con người phải biết tinh tấn tu tập thông qua việc giữ gìn những quy tắc ứng xử, được gọi trong Phật học là Giới. Đây không phải là những giới hạn áp đặt từ bên ngoài, mà là những nguyên tắc rèn luyện tâm thần giúp con người trở thành chủ nhân của cuộc sống mình. Phật dạy: “Những điều rằn cấm do Đức Phật chỉ định cho hàng xuất gia và tại gia để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp” là chìa khóa để thoát khỏi những ách xiềng của phiền não và đạt được hạnh phúc chân chính.

Tiết độ trong Phật giáo được xem là cứu cánh, để ta có được cái nhìn chính kiến, sống ung dung tự tại, không bị phiền nảo nào và cảm dỗ bởi danh lợi vật chất. Nếu không biết điều chỉnh cách sống phù hợp với tiết độ, con người có thể gánh chịu những khổ đau khôn lường. Qua thời kỳ phát triển của xã hội, những cám dỗ mới liên tục xuất hiện, khiến việc sống tiết độ trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Để hòa giải được khổ đau và thành tựu an lạc trong cuộc sống, Phật dạy con người phải biết sống tiết độ trong mỗi hành động thường ngày, quan trọng hơn là phải biết nâng cao tuệ giác để tu tập chính trị.

Tiết Độ Là Chìa Khóa Của An Lạc

Tiết độ (từ tiếng Anh “Moderation”) có thể hiểu là việc làm dung hòa, có chừng mực, biết tiết chế, tránh thái quá hoặc bất cập. Nói cách khác, tiết độ là mức độ điều hòa, quân bình nơi tự cách cử của con người. Những gì thái quá, quá đà là phản lại với sự tiết độ. Nhằm sống hợp lý, con người cần biết rằng những lối sống ích kỷ, chỉ biết đến mình, sống buông thả, ăn chơi sa đọa, vượt khỏi giới hạn của pháp luật đều được xem như là trái với tiết độ.

Thực tế cho thấy, những người quá đam mê khẩu vị phải gánh chịu những căn bệnh khó trị của thời đại như gout, ung thư hoặc bị béo phì và giảm sút sức khỏe. Những người quá đam mê vật chất thường không có được hạnh phúc gia đình, ít có được tri kỷ. Những người quá đam mê nhạc dục thường nhiều bệnh tật, thân tâm thường bất an. Những người quá tự cao thường cô đơn, lạc lõng, trong khi đó những người đầy sân hận thường gây nên lỗi lầm như dân gian có câu “Giận quá mất khôn”. Vì lý do này mà người ta nói rằng “Tiết độ là chìa khóa của an lạc”.

Một nhân viên đang thực hiện thiền định trong ngôi chùa, thể hiện sự tinh tấn tu tập và sự bình tĩnh nơi tâmMột nhân viên đang thực hiện thiền định trong ngôi chùa, thể hiện sự tinh tấn tu tập và sự bình tĩnh nơi tâm

Điều này đã được Đức Phật dạy trong Kinh Thiền Pháp. Qua bài kinh, Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử của Ngài về bảy pháp dẫn đến hoan hỷ an lạc, mang lại lợi ích cho mình và cho người, trong đó tiết độ là một trong bảy pháp. Theo lời Phật dạy: “Tỳ kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiện Thánh, thăng tiến đến lâu tận. Bảy pháp đó là gì? Đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chứng hội và biết sự hơn kém của người…”

Phật Dạy Phải Biết Tinh Tấn Tu Tập

Cùng với sự phát triển của xã hội, con người đối diện với nhiều cám dỗ mới nên việc sống tiết độ không phải là điều dễ dàng. Do đó, Phật dạy phải biết tinh tấn tu tập. Để làm được như thế, con người phải biết làm chủ mình trong cuộc sống thông qua tinh thần kỷ luật, mà trong Phật học gọi là Giới. Đó là “những điều rằn cấm do Đức Phật chỉ định cho hàng xuất gia và tại gia để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp”.

Giới còn có thể được hiểu là những điều không nên làm, là sự giữ gìn của mỗi người khi căn tiếp xúc với trần mà Đức Phật đã chỉ định cho đệ tử để ngăn ngừa tội lỗi của ba nghiệp về thân, khẩu và ý. Nghĩa rộng của giới thì bao hàm mỗi hành vi chân chính nhưng theo nghĩa hẹp thì chỉ giới hạn 2 phần là dừng các điều ác và làm các điều thiện, đặc biệt là 10 giới căn bản chung cho cả tại gia và xuất gia, liên hệ với ba nghiệp thân, khẩu, ý và nghiêng về các thiện hành: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói đâm thọc, không nói thô ác, không tham, không sân, không si.

Giới là một trong ba yếu tố căn bản không thể thiếu trong tiến trình tu tập để thành tựu đạo quả giải thoát Niết-bàn; nó có thể hạn chế những chướng ngại cho đời sống thanh tịnh và sự tu tập. Từ khía cạnh tu học, Giới – Định – Tuệ là ba vòng tròn liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi vòng tròn hỗ trợ các vòng tròn khác để tạo nên tổng thể của con đường giải thoát.

Các nhà sư đang thực hành bộ pháp với sự tập trung, minh họa tinh thần tu tập trong truyền thống Phật giáoCác nhà sư đang thực hành bộ pháp với sự tập trung, minh họa tinh thần tu tập trong truyền thống Phật giáo

Mục Đích Của Việc Giữ Giới

Tầm quan trọng của việc giữ giới được Đức Phật nhắc lại cho toàn thể các Tỳ kheo khi Ngài trú ở nước Xá-vệ, ở Kinh Giới thuộc Trung A-hàm và Tôn giả Xá-lợi-phất đã ví việc giữ giới giống như nuôi rễ cây. Nếu rễ cây không đủ mạnh thì cây không thể phát triển tốt được, cũng vậy nếu người tu không biết giữ gìn giới hạnh cũng không thể giải thoát, không thể chứng đắc Niết-bàn. Ngoài ra, người thành tựu giới đức còn được hưởng năm sự lợi ích: Thứ hơn biết giải thoát luật nghi, khéo thâu nhiếp các oai nghi lặt tiết, học rộng nghe nhiều, kiến thức rộng rãi, thấy hiểu rõ ràng; sống an lạc trong đời sống hiện tại, chứng đắc như thế trí, chân chính dứt hết khế, không còn tái sanh nữa.

Có lần Tôn giả A-nan thắc mắc về mục đích của việc giới, Tôn giả đã được Đức Phật dạy rằng: “Này A-nan, nhân trì giới mà được không hối hận, nhân không hối hận mà được hân hoan, nhân hân hoan mà được hạ, nhân hạ mà được chỉ, nhân chỉ mà được lạc, nhân lạc mà được định… Này A-nan, đó chính là các pháp hỗ trợ lẫn nhau, là làm nhân cho nhau. Như vậy, giới này đưa đến chủ tầu tột, tức là đưa từ bộ này đến tận bộ kia.”

Đối với hàng Phật tử tại gia, giữ Giới là điều kiện cần thiết để thực hiện tốt lời dạy của Đức Phật. Giữ giới không những mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân mà còn mang lại lợi lạc cho toàn xã hội. Về phía bản thân, giữ giới giúp cho bản thân an lành, thoát ly những sợ hãi, được mỗi người tin nhiệm, thân tâm thường an lạc, trí tuệ ngày càng phát khởi. Về phía xã hội, giữ giới giúp cho xã hội bình yên, trật tự, bình đẳng, văn minh, và hạnh phúc.

Tiết Độ Là Biết Xa Lìa Hai Cực Đoan

Sống tiết độ không có nghĩa là phải hà khắc, keo kiệt, bần xỉn, hành xác; nó cũng không phải là hoàn toàn xa lánh hoặc hoàn toàn trải nề. Tiết độ là xa lìa hai cực đoan: “Một cực đoan là luôn luôn đi tìm hạnh phúc bằng những khoái lạc giác quan hay dục lạc, đó là cách thấp hèn, tâm thường và không lợi lạc và là cách của những người tâm thường”; cực đoan thứ hai là đi tìm sự hạnh phúc thông qua sự hành phạt bản thân, hành xác bằng nhiều hình thức tu khổ hạnh khác nhau, đó là cách “chỉ mang lại đau đớn, không đáng phải làm và không lợi lạc”.

Đức Phật từng giảng dạy điều này trong bài kinh Câu-Lâu-Sâu vô trăng khi Ngài trú ở vùng Bị-kì-sâu ở Kiếm-ma-sắt-đâm, một địa ấp của Câu-lâu. Trong bài kinh, Phật dạy không nên theo dục lạc thấp kém, cũng không nên tự hành xác bằng khổ hạnh; hai cực đoan này đều thuộc tà đạo. Con đường Trung Đạo được Đức Phật thực chứng đã mang đến trí tuệ, giác ngộ và Niết-bàn, đó chính là Bát Chính Đạo.

Phật dạy: “Đương nên mong cầu dục lạc, là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hành vi của phàm phu. Cũng đương mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không tương ứng với cứu cánh. Vận đề này được nói lên với nguyên nhân nào? Ở đây, ‘Đương nên mong cầu dục lạc, là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hành vi của phàm phu’. Đây là nói về một cực đoan. ‘Cũng đương mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không tương ứng với nghĩa’. Đây là nói về một cực đoan nữa. Do bởi sự kiến này mà nói ‘Đương nên mong cầu dục lạc, là nghiệp vô cùng hèn hạ, là hành vi của phàm phu. Cũng đương mong cầu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không tương ứng với nghĩa’.”

Một vị tu sĩ đang thiền định trong ánh sáng mặt trời buổi sáng, biểu thị sự thanh tịnh và bình tĩnh của tâm thứcMột vị tu sĩ đang thiền định trong ánh sáng mặt trời buổi sáng, biểu thị sự thanh tịnh và bình tĩnh của tâm thức

Theo lời dạy của Đức Phật trong bài kinh Câu-Lâu-Sâu vô trăng, biết sống tiết độ cũng chính là biết thực thi “Trung Đạo”, con đường không tuyệt đối hóa một vấn đề gì, ly khai tất cả những ý niệm chấp trước, không chấp hữu và không chấp vô, không thái quá và không bất cập, ly khai các cực đoan và phiền nảo, tự tại vô ngại, giải thoát giác ngộ. Con đường Trung Đạo trong bài kinh Câu-Lâu-Sâu vô trăng là con đường thực hành theo Bát Chính Đạo, gồm tám yếu tố: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, và Chính định.

Bát Chính Đạo là con đường giải quyết các vấn đề khổ đau, bất nhược ý trong cuộc sống. Nếu người người biết tu theo Bát Chính Đạo, thế gian sẽ an lành tịnh lạc, không còn cảnh khổ đau, bất hạnh. Tám nhánh trong con đường này có mỗi tương hỗ qua lại lẫn nhau. Chúng phải được phát triển gần như đồng thời với nhau và mỗi nhánh giúp cho sự đào luyện những nhánh khác.

Đức Phật đã giảng dạy cho Ngũ Chi Vật Chủ mỗi liên hệ của tám nhánh trong Bát Chính Đạo: “…Vì nhân chính kiến nên sanh chính tư duy, nhân chính tư duy nên sanh chính ngữ, nhân chính ngữ nên sanh chính nghiệp, nhân chính nghiệp nên sanh chính mạng, nhân chính mạng nên sanh chính tinh tấn, nhân chính tinh tấn nên sanh chính niệm, nhân chính niệm nên sanh chính định. Hiện Thánh đệ tử đã định tâm như vậy rồi, liền giải thoát tất cả dâm, nộ, si. Này Vật chủ, Hiện Thánh đệ tử đã chính tâm giải thoát như vậy rồi, liền biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Đó gọi là học kiến đạo thành tựu tám chi, và A-la-hán lâu tận đã thành tựu mười chi.”

Ứng Dụng Tiết Độ Trong Cuộc Sống Hàng Ngày

Hiểu theo đời thường, “Giới” trong Phật giáo có thể là tính kỷ luật mà mỗi người phải tuân thủ, luyện tập thành thói quen, thành nếp sống hằng ngày từ cách phân bổ thời gian cho đến cách ăn xúi, chi tiêu cho sinh hoạt. Thói quen, nếp sống đã ăn sâu bám rễ trong cuộc sống mỗi con người nên để thay đổi nó con người cần phải có ý chí. “Vạn sự khởi đầu nan” nên chỉ cần vượt được những trở ngại ban đầu để thói quen, nếp sống tiết độ được hình thành thì con người sẽ bước vào một thay đổi mới, mang lại an lạc cho mình và cho người.

Tiết độ không những là việc làm cần thiết để có cuộc sống an lành mà còn là một kinh nghiệm của sự trưởng thành, biết biến chuyển những thói quen, lối sống tiêu cực thành tích cực. Người tiết độ là người biết chừng mực, biết dung hòa và luôn giữ cho tâm bình tĩnh. Người như vậy một mặt sẽ sống thoải mái, bình an; một mặt có khả năng làm được những việc mang tính thử thách cao, mang lại lợi ích cho mình và cho tha nhân. Trên tất cả đó là người biết làm chủ bản thân mình, thắng bản thân mình. Đó là một lợi ích lớn lao như Đức Phật nói “Thắng được vạn quân không bằng thắng chính mình”.

Giới – Định – Tuệ: Nền Tảng Của Giải Thoát

Như vậy, tiết độ là một hành vi tích cực, mang lại sự thăng bằng và thanh thoát cho cuộc sống con người; nó giúp kìm hãm, giới hạn những rằng buộc của bản năng và dục vọng. Tiết độ chính là chìa khóa thành công của đời người. Viện theo Giới – Định – Tuệ cũng là ba thành tố của con đường giải thoát theo lời dạy của Đức Phật. Nếu sống đúng với con đường Trung Đạo này thì con người đã từng bước từ bộ này đến tận bộ kia, vượt khỏi những đau khổ, vương mắc trong cuộc sống để nằm giữ hạnh phúc chân chính và đi vào cuộc sống an lạc.

Mục đích cuối cùng của việc tu tập Giới – Định – Tuệ hay tu tập Tam vô lâu học nhằm giúp vượt khỏi sự trói buộc của mỗi phiền nảo, hoàn toàn tự tại, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn, không còn năm trong sự kiếp tồn của tam giới và không dừng lại ở phúc báu sanh thiên. Ba môn học này chỉ có trong giáo pháp của Đức Phật. Qua từng bước tu tập theo Giới – Định – Tuệ, con người sẽ dần dần phát triển sự hiểu biết, tâm tư và hành động, từ đó tiến tới giải thoát.

Tóm lại, lối sống tiết độ qua lời dạy của Đức Phật là một lối sống có Chính kiến, giúp con người tránh xa những khổ đau do những cảm dỗ của vật chất mang lại. Mặt khác, tiết độ giúp con người biết sống có đạo đức, tuân thủ khuôn phép để xây dựng một cuộc sống an vui, hạnh phúc, thảnh thơi. Khi con người biết giữ tiết độ trong sinh hoạt hàng ngày, biết nâng cao tuệ giác để tu tập chính trị, họ sẽ từng bước tìm thấy con đường dẫn tới giải thoát và đạt được hạnh phúc thật sự mà Đức Phật đã thực chứng và chỉ dạy cho chúng ta.

Tham khảo:

  1. Tuệ Sỹ (dịch) (1992), Kinh Trung A Hàm, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội.
  2. Thích Minh Cảnh (2016), Từ Điển Phật Học Huệ Quang, Nhà xuất bản Tổng hợp TP HCM.
  3. Thích Thanh Từ (2009), Tam quy ngũ giới, Nhà xuất bản Tôn Giáo.
  4. Thích Chân Thiện (2009), Phật học khái luận, Nhà xuất bản Phương Đông.
  5. Thích Chân Tịnh (2006), Tam quy ngũ giới, Nhà xuất bản Tôn Giáo.
  6. W. Rahula – Lê Kim Kha (2011), Những Điều Phật Đã Dạy, Nhà xuất bản Phương Đông.

Related posts

Bồ Tát Quán Thế Âm Có Bao Nhiêu Thân Ứng Hóa?

Administrator

Lẽ Phật Dạy: Sát Sinh Để Cúng Giỗ Có Đem Lại Lợi Ích Không?

Administrator

“Rắn Trong Ống Trúc” – Bài Học Về Tập Khí Và Tu Tập Tâm Tính Người

Administrator