Mặt hạnh là việc làm thiện hạnh giữ kín không tiết lộ, hay nói theo tục ngữ Trung Quốc, là tích âm đức hoặc còn gọi là âm công. Đây là những hành động tốt lành mà không khoe khoang, không mong chờ phần thưởng, mà chỉ vì lòng từ bi và tâm nguyện giúp đỡ chúng sinh. Mặt hạnh là lối tu hành truyền thống của Phật giáo, giúp người thực hành nuôi dưỡng tâm từ, phát triển nhân cách và tiến gần hơn với giác ngộ.
Khái Niệm Mặt Hạnh Trong Phật Pháp
Mặt hạnh không chỉ đơn thuần là các việc tốt được làm lén lút mà còn là một phương pháp tu tập sâu sắc. Khi chúng ta thực hiện các hành động thiện lành mà không để người khác biết, tâm không còn chấp trước về “tôi” làm tốt, không mong chờ lợi ích hay danh vọng, thì đó là sự tu hành thực thụ. Theo giáo pháp Phật, mặt hạnh là cách để phá trừ kiêu ngạo, tham lam và vọng tâm—những cái gốc của khổ đau trong cuộc sống.
Các tiền nhân Phật giáo đã thực hành mặt hạnh một cách liêu lạc. Như lời Phật dạy, một vị tứ chúng thực tế tuân theo ngũ giới, nâng chén nước, rửa chân khi ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp mà khiến chúng sinh nhập được chánh tri kiến—tất cả những việc này, nếu không khoe khoang, đều là mặt hạnh. Dự vào Linh Sơn Tòa Thuyết, đại Ca-diếp trú ở xứ Lan-nhã, tích tỉnh thiếu dục, diễu khế chân như pháp tính, cũng là mặt hạnh tiêu biểu. Tu-bộ-đề (Subhūti) quán không nghiêng Phật, cũng là mặt hạnh tuyệt vời.
Mặt Hạnh Ứng Xứ—Hành Động Trong Đời Sống Hàng Ngày
Những việc làm tốt lành có nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bỏ thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ—đều là mặt hạnh gieo trồng phước đức. Theo lời Phật, bất kỳ ai thực hành những điều này đều đang tích tích thiện karmic, nuôi dưỡng tâm từ và mở rộng quan hệ nhân duyên.
Mặt hạnh ứng xứ bao gồm hai mươi lăm việc cần thực hành trong xã hội:
Thứ nhất, nhận một câu, nhịn một lúc, nhường một bước, tha một nước—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Đây là cách chúng ta ứng xử khôn khéo, khiêm nhường và mềm mỏng với người khác, không cứng nhắc hay tranh cãi.
Thứ hai, bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn đúng tôi sai, bạn tốt tôi xấu—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Thái độ này giúp ta tránh xa kiêu ngạo, sống hòa điều với mọi người.
Thứ ba, mỗi ngày bỏ thí một món nhỏ, kiên trì bền bỉ, đáp tăng xã hội—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Từ bi không chỉ nằm trong lòng, mà phải thể hiện qua hành động.
Thứ tư, không tranh công trạng, thành tựu vinh quang thuộc về đại chúng—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Tâm không tham danh lợi là điều kiện để mặt hạnh trở nên tinh khiết.
Người tu hành thực hành mặt hạnh qua việc giúp đỡ hàng xóm trong cuộc sống thường nhật
Thứ năm, tùy hệ tùy duyên, giúp đỡ người khác—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Sự giúp đỡ không có cách thức cố định, mà phải linh hoạt ứng với từng hoàn cảnh.
Thứ sáu, miệng nói lời hay, cho người tin tâm, hoan hỷ—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Lời nói của chúng ta có sức mạnh to lớn, có thể chữa lành hoặc gây tổn thương.
Thứ bảy, đối với quốc gia, làm bạn không mỉ miệt—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Yêu nước và tôn trọng pháp luật là trách nhiệm của mỗi công dân.
Thứ tám, đối với bạn bè, nên không nhớ nợ oán cừu—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Tình bạn quý giá nhất là không tính toán được mất.
Thứ chín, đối với bản thân, cần không quên sơ tâm—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Tự tu tập, tự hoàn thiện là nền tảng để giúp người khác.
Thứ mười, đối với xã hội, có thể bất biến tùy duyên—là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Linh hoạt ứng biến nhưng kiên định nguyên tắc là đạo đức của người Phật tử.
Ngoài các việc làm cơ bản này, còn có nhiều khía cạnh khác của mặt hạnh ứng xứ: không so đo, không tính toán; gặp người phải mỉm cười, xứ sự phải lịch sự; chịu thiệt không sao cả, cứ xứ chân thành; lúc bị chỉ trích mắng im lặng không đáp, lúc bị đánh kích tâm có thể bình tĩnh. Lúc bị đố kỵ đối đãi bằng tự tâm, lúc bị giảm pha cảm niệm lòng dạ ấy. Không vì tham lam mà xâm phạm người khác, không vì tự vệ mình nhanh nhạy mà mê mai người khác, không vì thấy người khác tốt mà đố kỵ công kích. Dùng cái tâm phê phán người khác để phê phán chính mình, dùng cái tâm khoan dung bản thân để khoan dung những lỗi lầm người khác.
Kết rằng duyên là nh, biết nghe lời phải, không vì bao che từ dục mà làm tổn thương người khác, buông bỏ chấp trước khiêm tốn tiếp nhận những lời hay láy phải. Cứ xứ chân thành không cầu báo đáp. Quan tâm đồng hương tham gia tình nguyện viên. Khi có người khác nhớ vả, phải hết lòng làm cho tới nơi tới chốn. Không vì tham lam mà xâm phạm người khác là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Khỏi không vì tự vệ mình nhanh nhạy mà mê mai người khác là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Khỏi không vì thấy người khác tốt mà đố kỵ công kích là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Dùng cái tâm phê phán người khác để phê phán chính mình là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Dùng cái tâm khoan dung bản thân để khoan dung những lỗi lầm người khác là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Kết rằng duyên là nh là mặt hạnh đối với nhân xứ thế. Biết nghe lời phải là mặt hạnh đối với nhân xứ thế.
Mặt Hạnh Sinh Hoạt—Tu Tập Trong Từng Khoảnh Khắc
Mặt hạnh sinh hoạt là những hành động nhỏ, tinh tế trong cuộc sống hàng ngày mà ít người nhận thấy nhưng có giá trị tu tập sâu sắc. Mỗi ngày khi ăn cơm đều thực hiện ba xưng niệm (tam đỉnh), nắm quán tưởng—là mặt hạnh sinh hoạt. Việc làm và nghỉ ngơi sinh hoạt có quy luật—là mặt hạnh sinh hoạt. Yêu quý và bảo vệ cây cối hoa cỏ, cắt tỉa tưới nước—là mặt hạnh sinh hoạt.
Mặt hạnh sinh hoạt được thể hiện qua việc chăm sóc cây trồng và bảo vệ thiên nhiên
Đông tác nhanh nhẹn không làm phiền đến sự yên tĩnh của người khác—là mặt hạnh sinh hoạt. Đi động ngồi nằm, oai nghi đoan chính—là mặt hạnh sinh hoạt. Xa rơi thuốc rượu tình dục, sinh hoạt tự quản lý kiên chế—là mặt hạnh sinh hoạt. Lái xe nhường nhau, quan tâm an toàn người đi đường—là mặt hạnh sinh hoạt.
Mỗi tháng ít nhất bế quan một ngày, tu trì pháp Phật—là mặt hạnh sinh hoạt. Mỗi ngày làm một việc khiến người cảm động—là mặt hạnh sinh hoạt. Mỗi ngày giúp người khác làm một số việc tốt, không cầu báo đáp—là mặt hạnh sinh hoạt.
Mỗi tuần ít nhất tham gia cùng đại chúng tu chung một cây hương—là mặt hạnh sinh hoạt. Học tập tiếp thu, hễ gặp việc gì hãy nhận nại—là mặt hạnh sinh hoạt. Mỗi ngày chia sẻ hoan hỷ tự bi với mỗi người—là mặt hạnh sinh hoạt. Tích phước tiết kiệm không mua linh tinh không mua trần lan—là mặt hạnh sinh hoạt.
Hơn một lần ăn chay thì hơn một mặt hạnh sinh hoạt—là mặt hạnh sinh hoạt. Lúc hoan hỷ không nói nhiều lúc giận hờn không truyền phiền nộ đến người khác—là mặt hạnh sinh hoạt. Mỗi tuần chỉ ít dành một tiếng đồng hồ để phục vụ khu vực—là mặt hạnh sinh hoạt. Nương giới sinh hoạt giữ gìn các căn—là mặt hạnh sinh hoạt. Ăn uống tiết chế độ lượng tri tức đạm bạc—là mặt hạnh sinh hoạt.
Thân thể ốm đau không oán trời trách đất—là mặt hạnh sinh hoạt. Thay tâm đổi tính hối đầu quay người là mặt hạnh sinh hoạt. Dục vọng tình ái công việc chỉ cần chính đáng—là mặt hạnh sinh hoạt. Không truyền bà thí phi không mang đau buồn tới người khác—là mặt hạnh sinh hoạt. Thích ứng trong mọi hoàn cảnh tùy duyên sinh sống tùy tâm tự tại tùy hệ mà làm—là mặt hạnh sinh hoạt.
Mặt Hạnh Xứ Thế—Giao Tiếp Lịch Sự Với Cộng Đồng
Mặt hạnh xứ thế là những cách ứng xử trang trọng và lịch sự trong các mối quan hệ xã hội. Hòa hợp người khác hài hòa đại chúng—là mặt hạnh xứ thế. Sắn sóc người khác ta người trân vẹn—là mặt hạnh xứ thế. Hăng thuận người khác coi trọng ý dân—là mặt hạnh xứ thế. Nhân nhường người khác đạt đến nhận thức chung—là mặt hạnh xứ thế.
Nhắc nhở người trẻ tuổi mới học dành cho họ những chỉ báo—là mặt hạnh xứ thế. Gặp được minh sư (thầy rõ sự là lý) phải gần gũi học hỏi không được làm trái—là mặt hạnh xứ thế. Gặp hiền nhân (người tài đức) phải khiêm tốn học hỏi—là mặt hạnh xứ thế. Phụng dưỡng cha mẹ (hai bên) phải kính thuận phụng dưỡng—là mặt hạnh xứ thế.
Đối xứ chủ quản phải một lòng trung thành—là mặt hạnh xứ thế. Thấy người nguy cấp phải dừng cảm cứu giúp—là mặt hạnh xứ thế. Tùy sức tùy phần tùy hệ tùy duyên bỏ thí gieo phước—là mặt hạnh xứ thế. Rõ nhân biết quả—là mặt hạnh xứ thế. Dùng lý trí tính hóa tình cảm dùng tự bi thương hoa tình cảm—là mặt hạnh xứ thế. Dùng pháp tắc hướng dẫn tình cảm dùng đạo đức dẫn dắt tình cảm—là mặt hạnh xứ thế.
Nhiếp tâm (chuyên chú) chính niệm—là mặt hạnh xứ thế. Không ẩn trồn không biến báo những sai trái của mình—là mặt hạnh xứ thế. Không quan tâm chuyện phải trái không nghe chuyện đúng sai—là mặt hạnh xứ thế. Thận trọng lời nói việc làm—là mặt hạnh xứ thế. Phòng xấu ngữa ác—là mặt hạnh xứ thế.
Lúc gặp mặt nên có đôi lời tương phùng nên hỏi thăm nhau—là mặt hạnh xứ thế. Trò chuyện cần mềm cười có tranh cãi chỉ một lần (không nên sa đà cãi nhau đến nơi làm hỏng mối quan hệ đôi bên)—là mặt hạnh xứ thế. Tự nhận vô lý người khác đều đúng—là mặt hạnh xứ thế. Hiện tăng khí quản (sau khi chết tự nguyện hiện xác) lưu lại tiếng thơm cho đời—là mặt hạnh xứ thế. Không ngỏ vực vô căn cơ người khác không đề kỵ người khác—là mặt hạnh xứ thế. Hỏ thần tất cả những thứ không biết bất tịnh bất thiện—là mặt hạnh xứ thế.
Mặt Hạnh Tu Hành—Sự Thực Tập Trong Đối Thoại Với Tự Tâm
Mặt hạnh tu hành là những nỗ lực không ngừng để trau dồi tâm linh và phát triển bản thân. Buổi sáng tỉnh tỏ một nến nhang để suy nghĩ trong sáng—là mặt hạnh tu hành. Mỗi ngày đọc một quyển kinh tạng tăng thêm văn-tư-tuệ—là mặt hạnh tu hành. Sáng sớm mỗi ngày tụng niệm vân kỳ nguyện tăng thêm tâm tự bi—là mặt hạnh tu hành.
Bất kỳ thân ở đâu thường xuyên cầu phúc cho người gặp tai nạn—là mặt hạnh tu hành. Với pháp Phật siêng năng tu tập không thối chuyển—là mặt hạnh tu hành. Với giới luật quyết định không phạm—là mặt hạnh tu hành. Tâm không nghĩ bảy chính tuệ rõ ràng—là mặt hạnh tu hành. Thân không tá hạnh (tá dâm) miệng không nói lời ác—là mặt hạnh tu hành.
Tu hành mặt hạnh qua việc tụng kinh và thiền định mỗi ngày
Tri tức đạm bạc vui trong tích tỉnh—là mặt hạnh tu hành. Không thích ăn uống gian dị tích phước—là mặt hạnh tu hành. Tất cả không đeo bám quyết chí tinh tiến—là mặt hạnh tu hành. Chuyên tâm vào định và tuệ tâm không cùi nhuếch—là mặt hạnh tu hành. Không cho mình tốt không rêu rao lỗi người—là mặt hạnh tu hành. Khiêm tốn theo thầy học tập tâm luôn ngay thẳng—là mặt hạnh tu hành. Vật người không tham của mình không keo kiệt—là mặt hạnh tu hành. Tự bi hỷ xả giúp người—là mặt hạnh tu hành. Tin sâu Chính pháp luôn nghĩ các điều thiện—là mặt hạnh tu hành. Không sinh kiêu ngạo khiêm cung lễ phép—là mặt hạnh tu hành. Kể oán người thân đều bình đẳng không sinh yêu ghét—là mặt hạnh tu hành. Kính yêu chúng sinh hữu tình có tâm thức như mình không khác—là mặt hạnh tu hành. Thông tình đạt lý khách quan không chấp kiến giải cá nhân—là mặt hạnh tu hành. Thường luôn tự mãn tùy duyên bất biến—là mặt hạnh tu hành. Thiền quán hành đạo không chấp có không—là mặt hạnh tu hành. Tự tâm là Phật đã đương ngay tại bây giờ—là mặt hạnh tu hành. Phát tâm Bộ-Đề (Bodhi) hành đạo Bộ-tát (Bodhisattva)—là mặt hạnh tu hành.
Ý Nghĩa Sâu Sắc Của Trăm Việc Mặt Hạnh
Trăm việc mặt hạnh là biểu đồi chiếu ghi chép thiện ác công tội một cách khôn khéo. Nó là tấm gương sáng cho lối nói việc làm đoan chính. Là nước pháp gọi tẩy nghiệp chướng phiền nào, là thuốc hay trị liệu khổ đau thân tâm, là thầy chỉ điểm tiến đạo cho tứ chúng. Mặt hạnh là sự bỏ thí vô tưởng tam luân thể không, hay là việc tu học bên trong nội tâm. Nếu có thể hiểu được và thực hành được, thì cuộc sống có thể đạt được tịnh hóa, thắng hoa.
Khi chúng ta tinh tấn thực hành mặt hạnh, từng việc làm nhỏ nhặt nhưng tất cả đều có ý nghĩa sâu sắc trong hành trình tu tập. Không cần khoe khoang hay đợi chờ phần thưởng khi thực hiện mặt hạnh, bởi vì niệm tường của người thực tập đã chứng minh rằng lòng từ bi là chân thật và không có động cơ ngoài. Như vậy, từng việc mặt hạnh là một hạt giống phước đức được gieo vào tâm linh, sẽ nẩy nở thành một cánh vườn Phật pháp rộng lớn trong tương lai.
Nam Mô A Di Đà Phật.